Hướng dẫn cách soạn bài Và tôi vẫn muốn mẹ? Chương trình ngữ văn lớp 11 có những chuyên đề học tập nào quan trọng?

Bài Và tôi vẫn muốn mẹ có hướng dẫn cách soạn nào? Kết quả học tập thế nào thì học sinh lớp 11 được lên lớp?

Đăng bài: 12:00 07/03/2025

Hướng dẫn cách soạn bài Và tôi vẫn muốn mẹ?

Dưới đây là hướng dẫn cách soạn bài Và tôi vẫn muốn mẹ như sau:

Trước khi đọc

Câu hỏi 1: Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động nói về tình cảm của mẹ con mà bạn từng biết qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu, điện ảnh,...)

Trả lời:

Một trong những câu chuyện cảm động nhất về tình mẫu tử trong văn học là Chiếc lá cuối cùng của O. Henry. Dù câu chuyện này tập trung vào tình bạn và sự hy sinh, nhưng tình cảm của nhân vật người mẹ ẩn dụ—người họa sĩ già Behrman—vẫn khiến người đọc xúc động sâu sắc.

Câu chuyện kể về cô gái trẻ Johnsy, một họa sĩ nghèo bị viêm phổi nặng. Cô tin rằng khi chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân rụng xuống, cô cũng sẽ lìa đời. Người bạn cùng phòng, Sue, vô cùng lo lắng nhưng không thể thuyết phục Johnsy từ bỏ suy nghĩ bi quan ấy.

Biết được điều này, cụ Behrman—một họa sĩ già sống cùng khu trọ—đã âm thầm vẽ một chiếc lá thường xuân trên tường trong một đêm mưa gió rét buốt. Sáng hôm sau, Johnsy thấy chiếc lá vẫn còn đó, cô lấy lại niềm tin vào cuộc sống và dần hồi phục. Nhưng đau đớn thay, cụ Behrman đã qua đời vì viêm phổi do dầm mưa suốt đêm để hoàn thành bức vẽ.

Dù không phải mẹ ruột của Johnsy, nhưng hành động hy sinh của cụ Behrman lại mang đầy đủ sự yêu thương, bảo bọc như một người mẹ dành cho con. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình mẫu tử theo nghĩa truyền thống, mà còn tôn vinh những con người sẵn sàng hy sinh vì người khác—một tình cảm thiêng liêng và cao đẹp không gì có thể thay thế.

Câu hỏi 2: Qua thực tế cuộc sống xung quanh, bạn biết được gì về những hậu quả mà chiến tranh gây ra đối với đời sống con người?

Trả lời:

Chiến tranh để lại những hậu quả nặng nề không chỉ đối với những người trực tiếp tham gia mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến cả thế hệ sau. Qua thực tế cuộc sống, có thể thấy rõ những tác động nghiêm trọng mà chiến tranh gây ra đối với đời sống con người trên nhiều phương diện:

Nỗi đau thể xác và tinh thần

Chiến tranh gây ra thương vong lớn, để lại những mất mát không thể bù đắp. Những người lính trở về sau chiến tranh mang trên mình thương tật, di chứng tâm lý như rối loạn căng thẳng hậu chấn thương (PTSD). Những gia đình mất đi người thân phải sống trong đau thương, thiếu thốn tình cảm.

Suy giảm kinh tế và đói nghèo

Chiến tranh tàn phá cơ sở hạ tầng, làm suy yếu nền kinh tế. Những vùng từng là chiến trường thường mất hàng chục năm để phục hồi. Người dân mất kế sinh nhai, mùa màng bị phá hủy, đất đai ô nhiễm bởi bom mìn, dẫn đến đói nghèo kéo dài.

Tàn phá môi trường

Chất độc hóa học, bom mìn chưa phát nổ và các loại vũ khí hủy diệt đã làm tổn hại nghiêm trọng đến môi trường. Những khu rừng xanh tươi bị hủy hoại, đất đai bạc màu, nguồn nước ô nhiễm, ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người.

Ảnh hưởng đến thế hệ sau

Hậu quả chiến tranh không chỉ dừng lại ở những người trực tiếp tham gia mà còn kéo dài đến con cháu họ. Nhiều trẻ em sinh ra bị dị tật do ảnh hưởng của chất độc hóa học. Những ký ức đau buồn về chiến tranh vẫn còn ám ảnh trong tâm trí những người lớn tuổi, truyền lại nỗi đau cho thế hệ sau.

Nhìn vào những hậu quả khốc liệt này, nhân loại càng ý thức hơn về giá trị của hòa bình. Chỉ khi không còn chiến tranh, con người mới có thể thực sự được sống hạnh phúc, phát triển và xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.

Đọc văn bản

Gợi ý trả lời câu hỏi trong khi đọc:

1. Thời điểm và những sự kiện ban đầu xảy ra được lưu giữ trong kí ức của nhân vật.

Thời điểm: học xong lớp một vào tháng Năm năm 41 và bố mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên Gô-rô-đi-sa (Gorodisha) gần Min-xcơ (Minsk). 

Sự kiện: mới bơi được một lần, hai ngày sau chiến tranh, đưa lên tàu và chở đi, máy bay Đức bay trên đầu còn chúng tôi hò reo. 

2. Những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên.

Đó là những chiếc máy bay lạ, cảnh chết chóc. 

3. Hoàn cảnh của chuyến đi có gì khác thường?

Bị quân đội Đức chiêm mất thành phố và mọi người phải đến Mô-đô-vi-a (Mordovia).

4. Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát.

Không chỉ trại mồ côi đói, mà những người xung quanh chúng tôi cũng đói bởi mọi thứ đều chuyển ra tiền tuyến. 

Có con ngựa Mai-ca (Maika) già và rất dịu dàng nhưng bị giết; hai con mèo đói nữa. 

5. Trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ.

Những đứa trẻ òa khóc, gào khóc không nguôi.

6. Kết quả chờ đợi ba mẹ và niềm khát khao cháy bỏng của nhân vật.

Nhưng họ đã mất tích đâu đó trong một trận bom, sau này những người láng giềng kể lại, cả hai đã lao đi tìm tôi. Khi tôi đã 51 tuổi và tôi vẫn muốn khao khát muốn gặp lại mẹ.

Sau khi đọc

Nội dung chính: Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.

Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc:

Câu 1: Hãy tóm lược nội dung được kể lại trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng của câu chuyện.

Trả lời:

- Năm 1941 – tôi là một đứa bé 8 tuổi, sau khi từ biệt bố mẹ đi dự trại hè đội viên, gặp một trận bom của phát xít Đức, chứng kiến sự đổ máu, chết chóc. Tôi cũng như bao đứa trẻ khác phải rời trại hè, mang theo lương thực, thực phẩm về một vùng hậu phương xa xôi, không có bom đạn. ở vùng đất mới, những đứa trẻ biết thế nào là thiếu thốn, đói khát, chẳng có gì để ăn, đến nỗi phải giết cả con ngựa già chuyên chở đồ đạc, thậm chí ăn cả chồi mầm, vỏ cây. Trên tất cả là nỗi nhớ mẹ, nhớ đến mức gào khóc không nguôi. Đến lớp ba tôi trốn trại được một gia đình ông già cưu mang. Trong lòng tôi chỉ có một nỗi ước ao, được đi tìm mẹ. Cứ thế mãi sau này, khi đã năm mơi mốt tuổi, tôi vẫn muốn có mẹ.

- Điểm nhấn quan trọng của câu chuyện là các sự kiện liên quan đến mẹ - điều đã được khái quát ở nhan đề của văn bản.

Câu 2:  Chỉ ra những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó.

Trả lời:

Nhân vật tôi tự kể câu chuyện của mình, tự nhớ lại những ký ức tuổi thơ mà mình đã trải qua để thấy được cái hiện thực của chiến tranh và những giá trị của tình cảm gia đình. Nét đẹp đầu tiên của nhân vật tôi lúc bé đó chính là một đứa trẻ hồn nhiên, kiên cường. Nhân vật tôi reo hò khi lần đầu tiên thấy máy bay, chỉ biết ngồi lên xe đi và nghĩ mình đang được đi trại hè. Những đứa trẻ ngây thơ được chuẩn bị cho rất nhiều bánh kẹo, sẵn sàng sẻ chia số bánh kẹo đó cho những người lính bị thương. Chúng không biết rằng mai sau đây chúng sẽ không còn cái gì để ăn. Khi đói khát ngày một nhiều, cuộc sống của những đứa trẻ càng khổ cực hơn khi phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Nét tính cách thứ hai cũng là nét tính cách khiến người đọc ấn tượng nhất đối với nhân vật tôi. Nhân vật tôi có tình cảm sâu sắc với ba mẹ của mình, đó có lẽ là thứ tình cảm giúp nhân vật tôi vượt qua sự khốc liệt của chiến tranh. Lúc nào cũng muốn được tìm lại mẹ, không ngại khó khăn khổ cực. 

Câu 3: Phân tích một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết, hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với bạn? Vì sao?

Trả lời:

Những ngày đau thương, đói khát, hãi hùng và thiếu thốn tình mẹ của bao đứa trẻ trong chiến tranh khốc liệt – đó chính là nét đặc biệt của bức tranh cuộc sống được tái hiện trong văn bản. Bức tranh này được tạo nên bằng nhiều chi tiết, hình ảnh sống động:

- Máy bay đánh bom, tất cả sắc màu đều biến mất. Lần đầu tiên đứa bé biết đến từ chết chóc.

- Trên tàu, những đứa trẻ chứng kiến cảnh nhiều người lính bị thương, rên la vì đau đớn.

- Triền miên trong đói khát, người ta giết thịt cả con ngựa già thân thiết duy nhất, rồi phải ăn cây cỏ để sống qua ngày.

- Trong trại hè mồ côi, hàng chục đứa bé khóc rền gọi ba mẹ. Mỗi lần từ “mẹ” được ai vô tình nhắc tới, chúng lại “gào khóc không nguôi”.

- Đứa bé lớp ba trốn trại đi tìm mẹ, đói lả đến kiệt sức, may được ông già đem về nuôi...

Câu 4.: Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.

Trả lời:

Những kí ức về chiến tranh được lưu giữ qua ký ức của những đứa trẻ vừa chân thực, nhưng cũng đầy khốc liệt. Dưới cái nhìn của nhân vật tôi đó là bức tranh nhiều màu sắc có chút ngây ngô của trẻ con, có cả tình yêu thương sâu sắc dành cho gia đình. Việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò làm người kể chuyện. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi.

Câu 5: Theo bạn, những yếu tố nào có khả năng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà bạn nhận được từ văn bản "Và tôi vẫn muốn mẹ..." là gì?

Trả lời:

Các chi tiết: Những đứa trẻ lần đầu nhìn thấy máy bay, không hề biết những nguy hiểm đang cận kề. Tận khi tất cả khung cảnh xung quanh những đứa trẻ mất, thì chúng mới biết cái khốc liệt và thê thảm của những thứ này. Chúng phải trải qua một mình mà không được ở bên cạnh bố mẹ. Những đứa trẻ gặp những ngày lính bị thương và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng có. Trong con mắt của những đứa trẻ ngây thơ này, thì đó như là những người cha của mình vì cha của những đứa trẻ này cũng đang phục vụ cho quân đội. Vì quân Đức đang chiếm đóng và tàn phá nặng nề, những đứa trẻ sẽ được đến những nơi mà không có chiến tranh. Nhưng đến nơi không có chiến tranh thì cuộc sống của những đứa trẻ vẫn không thể có một cuộc sống đủ đầy. Không có chỗ ăn, chỗ ngủ mà phải chợp mắt trên những đống rơm rạ. Chúng thiếu thốn đồ ăn đến mức mà những người bảo mẫu ở đấy phải giết cả con vật đang chở nước để ăn. Thiếu đồ ăn ngày một nhiều đến mức những đứa trẻ phải ăn cả vỏ cây và những chồi non, nếu như chúng không muốn chết đói. Thiếu đồ ăn không phải là điều tồi tệ nhất với những đứa trẻ mà là việc chúng phải xa gia đình của mình. Những đứa trẻ nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến cho những người giáo viên không dám nhắc đến mẹ trước mặt bọn chúng. Khi ngày càng nhớ mẹ, nhân vật tôi đã trốn đi để tìm mẹ.

Thông điệp: Chiến tranh đã khiến những gia đình phải xa cách, sinh ly tử biệt. Chiến tranh là thứ tàn phá nhân loại. 

Kết nối đọc – viết

Bài tập: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa hai câu cuối trong văn bản: "Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ".

Đoạn văn tham khảo:

Hai câu cuối trong văn bản Và tôi vẫn muốn mẹ... chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Câu văn “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con” thể hiện sự trưởng thành, chín chắn của người con – giờ đây cũng đã trở thành cha mẹ, có trách nhiệm nuôi dạy con cái. Tuy nhiên, dù đã đi qua hơn nửa đời người, dù đã trở thành bậc làm cha mẹ, người con ấy vẫn luôn mong muốn có mẹ bên cạnh. Câu “Và tôi vẫn còn muốn mẹ” là một lời khẳng định đầy xúc động về tình yêu và sự gắn bó không thể thay thế với mẹ. Điều đó cho thấy rằng, dù con người có trưởng thành đến đâu, có mạnh mẽ thế nào, thì trong sâu thẳm, ai cũng cần tình yêu thương, sự chở che của mẹ. Đây là một lời nhắc nhở đầy xúc động: hãy trân trọng mẹ khi còn có thể, vì mẹ chính là điểm tựa ấm áp nhất trong cuộc đời mỗi người.

Lưu ý: Hướng dẫn cách soạn bài Và tôi vẫn muốn mẹ chỉ mang tính tham khảo!

Hướng dẫn cách soạn bài Và tôi vẫn muốn mẹ? Chương trình ngữ văn lớp 11 có những chuyên đề học tập nào quan trọng?

Hướng dẫn cách soạn bài Và tôi vẫn muốn mẹ? Chương trình ngữ văn lớp 11 có những chuyên đề học tập nào quan trọng?

Chương trình ngữ văn lớp 11 có những chuyên đề học tập nào quan trọng?

Căn cứ mục V Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT thì 3 chuyên đề học tập trong chương trình Ngữ văn lớp 11 là:

(1) Chuyên đề: Tập nghiên cứu và viết báo cáo về một vấn đề văn học trung đại

- Biết các yêu cầu và cách thức nghiên cứu một vấn đề văn học trung đại Việt Nam.

- Biết viết một báo cáo nghiên cứu.

- Vận dụng được một số hiểu biết từ chuyên đề để đọc hiểu và viết về văn học trung đại Việt Nam.

- Biết thuyết trình một vấn đề của văn học trung đại Việt Nam.

(2) Chuyên đề: Tìm hiểu ngôn ngữ trong đời sống xã hội hiện đại

- Hiểu được ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội và là một bộ phận cấu thành của văn hoá.

- Nhận biết và đánh giá được các yếu tố mới của ngôn ngữ trong đời sống xã hội đương đại.

- Biết vận dụng các yếu tố mới của ngôn ngữ đương đại trong giao tiếp.

(3) Chuyên đề: Đọc, viết và giới thiệu về một tác giả văn học

- Nhận biết được một số đặc điểm nổi bật về sự nghiệp văn chương và phong cách nghệ thuật của một tác giả lớn.

- Biết cách đọc một tác giả văn học lớn.

- Biết viết bài giới thiệu về một tác giả văn học đã đọc.

- Vận dụng được những hiểu biết từ chuyên đề để đọc hiểu và viết về những tác giả văn học khác.

- Biết thuyết trình về một tác giả văn học.

Kết quả học tập thế nào thì học sinh lớp 11 được lên lớp?

Căn cứ khoản 1 Điều 12 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT quy định điều kiện được lên lớp của học sinh lớp 11 như sau:

Được lên lớp, đánh giá lại trong kì nghỉ hè, không được lên lớp
1. Học sinh có đủ các điều kiện dưới đây thì được lên lớp hoặc được công nhận hoàn thành chương trình trung học cơ sở, chương trình trung học phổ thông:
a) Kết quả rèn luyện cả năm học (bao gồm kết quả đánh giá lại sau khi rèn luyện trong kì nghỉ hè theo quy định tại Điều 13 Thông tư này) được đánh giá mức Đạt trở lên.
b) Kết quả học tập cả năm học (bao gồm kết quả đánh giá lại các môn học theo quy định tại Điều 14 Thông tư này) được đánh giá mức Đạt trở lên.
c) Nghỉ học không quá 45 buổi trong một năm học (tính theo kế hoạch giáo dục 01 buổi/ngày được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông, bao gồm nghỉ học có phép và không phép, nghỉ học liên tục hoặc không liên tục).
...

Như vậy, học sinh lớp 11 được lên lớp khi kết quả học tập cả năm học (bao gồm kết quả đánh giá lại các môn học) được đánh giá mức Đạt trở lên.

17 Võ Phi

- Nội dung nêu trên được NhanSu.vn biên soạn và chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế thông tin chính thức từ nhà tuyển dụng;

- Điều khoản được áp dụng (nếu có) có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Quý khách vui lòng kiểm tra lại trước khi áp dụng;

- Mọi ý kiến thắc mắc về bản quyền, nội dung của bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ email hotrophaply@nhansu.vn;

© NhanSu.vn

Địa chỉ: 19 Nguyễn Gia Thiều Phường Võ Thị Sáu, quận 3, TP. Hồ Chí Minh

Điện thoại: (028)39302288 - Zalo: 0932170886

Email: info@nhansu.vn


CHỦ QUẢN: CÔNG TY TNHH THƯ VIỆN PHÁP LUẬT

GP thiết lập trang TTĐTTH số 30/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP.HCM cấp ngày 15/06/2022

Mã số thuế: 0315459414

Địa chỉ trụ sở: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM

Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ


© 2025 All Rights Reserved