Nhấn vào mũi tên để hiển thị chuyên mục con hoặc nhấn vào tiêu đề để lọc theo chuyên mục cha
07 mẫu viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về thân phận người phụ nữ xưa?
Đoạn văn trình bày suy nghĩ về thân phận người phụ nữ xưa có những mẫu bài văn nào? Giáo viên chủ nhiệm lớp 9 có trách nhiệm gì?
07 mẫu viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về thân phận người phụ nữ xưa?
Dưới đây là 07 mẫu viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về thân phận người phụ nữ xưa như sau:
Mẫu 1:
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa là một chuỗi dài những đau khổ và bất công. Họ bị ràng buộc bởi lễ giáo hà khắc, phải tuân theo những quy tắc "tam tòng, tứ đức" một cách tuyệt đối. Dù tài giỏi hay đức hạnh đến đâu, họ vẫn chỉ được xem là người phụ thuộc vào nam giới, không có quyền quyết định cuộc đời mình. Hôn nhân của họ do cha mẹ sắp đặt, hạnh phúc cá nhân không được coi trọng. Trong gia đình, họ bị xem như người "nâng khăn sửa túi" cho chồng, phải nhẫn nhịn dù chịu nhiều bất công. Hình ảnh những người phụ nữ chịu khổ đau trong văn học, như Thúy Kiều trong Truyện Kiều hay Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, đã phản ánh rõ số phận bi kịch của họ.
Mẫu 2:
Xã hội phong kiến xưa với tư tưởng trọng nam khinh nữ đã đẩy người phụ nữ vào cuộc sống đầy cay đắng. Họ không được quyền học hành, không có tiếng nói trong gia đình và xã hội. Số phận của họ thường gắn với những nỗi đau về tình yêu và hôn nhân, nơi mà chữ "hiếu" và chữ "tòng" trở thành gánh nặng. Những câu ca dao như "Thân em như hạt mưa sa / Hạt vào đài các, hạt ra ruộng đồng" đã nói lên nỗi xót xa khi cuộc đời người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào may rủi. Dù hy sinh tất cả cho chồng con, họ vẫn không thể tránh khỏi những định kiến cay nghiệt. Chính vì vậy, thân phận người phụ nữ xưa là một hình ảnh tiêu biểu cho những bất công trong xã hội phong kiến.
Mẫu 3:
Trong xã hội phong kiến, thân phận người phụ nữ bị chèn ép bởi những tư tưởng lỗi thời. Họ không được tự do quyết định cuộc đời mình, mà phải phục tùng cha mẹ, chồng con. Quan niệm "tam tòng, tứ đức" đặt họ vào vị thế yếu kém, khiến họ trở thành nạn nhân của bất công. Văn học trung đại đã khắc họa rõ nét những số phận bi kịch ấy, điển hình như Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu biết bao đau khổ vì lễ giáo. Hay như người phụ nữ trong ca dao "Thân em như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai", cuộc đời của họ bị phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Điều đó cho thấy xã hội xưa đã tước đi quyền tự do và hạnh phúc của biết bao người phụ nữ.
Mẫu 4:
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa giống như những cánh hoa nhỏ bé bị vùi dập bởi những tư tưởng hà khắc. Họ bị coi thường, không được học hành, không có quyền lựa chọn cuộc sống của mình. Hôn nhân của họ không dựa trên tình yêu mà phụ thuộc vào sự sắp đặt của gia đình. Nhiều người phải chịu cảnh làm lẽ, bị ruồng rẫy khi chồng có thêm vợ mới. Hình ảnh nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện rõ bi kịch của người phụ nữ: dù hết lòng vì chồng con nhưng vẫn bị nghi ngờ, oan ức đến mức phải tự vẫn. Thực tế đó khiến ta càng thêm trân trọng những giá trị của thời hiện đại, nơi phụ nữ đã có quyền tự chủ và bình đẳng hơn trong xã hội.
Mẫu 5:
Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa được ví như "bèo trôi sông nước," chịu nhiều thiệt thòi và đau khổ. Họ không có tiếng nói, bị xem là phận "liễu yếu đào tơ" chỉ biết nương tựa vào đàn ông. Trong hôn nhân, họ không có quyền lựa chọn, phải chấp nhận số phận do cha mẹ sắp đặt. Nếu may mắn, họ có được một cuộc sống yên bình, còn không, họ sẽ phải chịu cảnh bạc bẽo, bị bỏ rơi, bị đày đọa. Văn học dân gian và văn học trung đại đã phản ánh rõ điều này qua những nhân vật như Thúy Kiều, nàng Vũ Nương, hay hình ảnh người phụ nữ trong câu ca dao "Thân em như trái bần trôi / Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu". Những nỗi đau ấy chính là minh chứng cho sự bất công mà người phụ nữ xưa phải gánh chịu.
Mẫu 6:
Dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ không chỉ chịu sự áp đặt của gia đình mà còn bị xã hội vùi dập. Họ bị xem là "công cụ" để duy trì gia tộc, không có quyền quyết định cuộc đời mình. Nhiều người phụ nữ tài giỏi nhưng phải chôn vùi tuổi xuân trong những khuôn khổ nghiệt ngã. Họ bị ép gả cho người mình không yêu, chịu cảnh chồng chung, bị ràng buộc bởi "tam tòng, tứ đức." Hình ảnh Thúy Kiều trong Truyện Kiều là minh chứng điển hình cho nỗi đau ấy: nàng vì chữ hiếu mà phải hy sinh hạnh phúc cá nhân, chịu đựng mười lăm năm lưu lạc, bị chà đạp cả thể xác lẫn tinh thần. Qua đó, có thể thấy rằng xã hội phong kiến đã đẩy biết bao người phụ nữ vào vòng khổ ải không lối thoát.
Mẫu 7:
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa chịu nhiều áp bức và bất công, nhưng họ cũng chính là biểu tượng của đức hy sinh và lòng kiên nhẫn. Họ cam chịu số phận, chấp nhận những đau thương vì con cái, gia đình. Trong văn học, hình ảnh người phụ nữ hiện lên với những nỗi đau chồng chất, như nàng Vũ Nương vì chồng mà chịu oan khuất, hay Thúy Kiều vì gia đình mà chấp nhận cuộc đời lưu lạc. Dù xã hội cũ đã khép lại, nhưng những câu chuyện ấy vẫn là bài học sâu sắc về sự bất công đối với phụ nữ. Ngày nay, khi xã hội đã tiến bộ, người phụ nữ đã có quyền được học tập, làm việc và tự do yêu thương, điều đó càng khiến ta thêm trân trọng những giá trị của hiện tại và nỗ lực để bảo vệ quyền bình đẳng giới.
Lưu ý: 07 mẫu viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về thân phận người phụ nữ xưa chỉ mang tính tham khảo!
07 mẫu viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về thân phận người phụ nữ xưa?
Học sinh lớp 9 được phân loại đánh giá như thế nào?
Căn cứ khoản 1 Điều 9 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT quy định về mức đánh giá học sinh lớp 9 như sau:
- Trong một học kì, kết quả học tập mỗi môn học của học sinh được đánh giá theo 01 (một) trong 02 (hai) mức: Đạt, Chưa đạt.
+ Mức Đạt: Có đủ số lần kiểm tra, đánh giá và tất cả các lần được đánh giá mức Đạt.
+ Mức Chưa đạt: Các trường hợp còn lại.
- Cả năm học, kết quả học tập mỗi môn học của học sinh được đánh giá theo 01 (một) trong 02 (hai) mức: Đạt, Chưa đạt.
+ Mức Đạt: Kết quả học tập học kì II được đánh giá mức Đạt.
+ Mức Chưa đạt: Kết quả học tập học kì II được đánh giá mức Chưa đạt.
Giáo viên chủ nhiệm lớp 9 có trách nhiệm gì?
Theo quy định tại Điều 20 Thông 22/2021/TT-BGDĐT quy định về trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm như sau:
- Giúp Hiệu trưởng quản lí việc đánh giá học sinh của lớp học theo quy định của Thông tư này.
- Xác nhận việc sửa chữa điểm, sửa chữa mức đánh giá của giáo viên môn học; tổng hợp kết quả rèn luyện và học tập của học sinh từng học kì, cả năm học trong Sổ theo dõi và đánh giá học sinh (theo lớp học), Học bạ học sinh.
- Đánh giá kết quả rèn luyện từng học kì và cả năm học của học sinh; lập danh sách học sinh được lên lớp, đánh giá lại các môn học, rèn luyện trong kì nghỉ hè, không được lên lớp, được khen thưởng.
- Ghi hoặc nhập kết quả đánh giá của mỗi học sinh vào sổ theo dõi và đánh giá học sinh (theo lớp học), Học bạ học sinh:
+ Nội dung nhận xét về kết quả rèn luyện và học tập của học sinh; mức đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
+ Kết quả được lên lớp hoặc không được lên lớp; được công nhận hoàn thành chương trình trung học cơ sở, chương trình trung học phổ thông hoặc không được công nhận hoàn thành chương trình trung học cơ sở, chương trình trung học phổ thông; khen thưởng.
- Hướng dẫn học sinh tự nhận xét trong quá trình rèn luyện và học tập. Phối hợp với giáo viên môn học, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban Đại diện cha mẹ học sinh lớp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để giáo dục học sinh và tiếp nhận thông tin phản hồi về quá trình rèn luyện và học tập của học sinh.
- Thông báo riêng cho cha mẹ học sinh về quá trình, kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
- Nội dung nêu trên được NhanSu.vn biên soạn và chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế thông tin chính thức từ nhà tuyển dụng;
- Điều khoản được áp dụng (nếu có) có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Quý khách vui lòng kiểm tra lại trước khi áp dụng;
- Mọi ý kiến thắc mắc về bản quyền, nội dung của bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ email [email protected];