Bài "Sóng" phân tích đầy đủ và chi tiết nhất?

Bài "Sóng" phân tích đầy đủ và chi tiết nhất? Mục tiêu của giáo dục phổ thông được quy định như thế nào?

Đăng bài: 18:20 14/04/2025

Bài "Sóng" phân tích đầy đủ và chi tiết nhất

Dưới đây là bài "Sóng" phân tích đầy đủ và chi tiết nhất của nhà thơ Xuân Quỳnh:

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trrong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bằng tài năng của mình, Xuân Quỳnh đã để lại cho đời vô số tuyệt phẩm như Tự hát, Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu, Bàn tay em... Và làm sao có thể không nhắc đến Sóng, một bài thơ đã đi vào huyền thoại và trở thành biểu tượng về tình yêu đặc trưng cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Cùng phân tích Sóng để thấy được những tâm tư, nỗi niềm trăn trở về tình yêu đã được Xuân Quỳnh thể hiện qua tác phẩm.

Sóng được viết vào năm 1967, trong một chuyến công tác của Xuân Quỳnh tại biển Diêm Điền, Thái Bình, khi ấy Xuân Quỳnh mới chỉ vừa 25 tuổi đời, là lứa tuổi mặn mà và tươi đẹp nhất của người phụ nữ. Thế nhưng bà cũng đã phải nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng từng có một gia đình hạnh phúc, một người chồng thương yêu chiều chuộng hết lòng, nhưng có lẽ sự xa cách về tâm hồn, và sự chăm chút quá tỉ mỉ của người đàn ông ấy khiến bà cảm thấy ngột ngạt và chán nản. Hôn nhân đổ vỡ, Xuân Quỳnh không cảm thấy thất bại hay buồn rầu mà lại càng thấm thía và khao khát có được một tình yêu đích thực, sự thấu hiểu giữa những con người cùng chí hướng. Khi đứng trước biển Diêm Điền, với những cơn sóng dạt dào, bà nghĩ về bóng hình người đàn ông trong định mệnh, để viết ra những vần thơ về tình yêu thật sâu sắc và chân thành.

Trong Sóng người ta thấy quan điểm về tình yêu của Xuân Quỳnh rất hay và rất độc đáo vừa mang tính chất truyền thống đằm thắm, thủy chung, lại cũng mang vẻ hiện đại đầy khao khát và tự do.

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Xuân Quỳnh lấy hình tượng sóng làm hóa thân cho tình yêu và cũng là nhân vật trữ tình “em” trong tác phẩm, đó là một phép ẩn dụ rất tinh tế thể hiện được những nét cá tính của người phụ nữ trong tình yêu. Đứng trước tình yêu, nhân vật trữ tình thể hiện được bản năng cùng cá tính mạnh mẽ, chủ động và sự tự tin, để hòa mình vào với tình yêu bằng những cảm xúc thực tế “dữ dội”, “ồn ào” và sôi nổi vô cùng. Từ đó ta nhận ra cái tôi cá nhân mạnh mẽ, luôn cố gắng kiếm tìm hạnh phúc đích thực trong tình yêu một cách tích cực, chứ không bị động chờ đợi cái gọi là “duyên phận”. Nếu một dòng sông nhỏ nhoi chẳng thể cho ta một tình yêu ta cần, thì còn ngại ngần chi mà không sông pha biển lớn, tắm trong hàng ngàn cơn sóng tình yêu mạnh mẽ và đầy hy vọng? Tuy nhiên bên cạnh vẻ hiện đại, thì hình tượng sóng cũng gợi ra những vẻ đẹp rất truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong việc bộc lộ tình cảm ấy là sự “dịu êm” và “lặng lẽ”. Họ dùng chính sự dịu dàng, chính cái yên lặng ngại ngùng khi đứng trước tình nhân để bộc lộ thứ tình cảm nồng nàn, e ấp trong lòng bấy lâu. Khiến đối phương càng nhìn lại càng thấy lòng thêm xao xuyến, yêu thương cái vẻ đẹp đáng quý ấy ở người phụ nữ Á đông. Bên cạnh đó hình tượng “sóng” còn mang đến cho chúng ta những liên tưởng về những cung bậc cảm xúc trong tình yêu, đôi khi là sự nồng nhiệt, cháy bỏng, là sự rung động mạnh mẽ, nhưng tình yêu không phải là xúc nhất thời mà nó còn cần thêm sự lắng đọng, thấu hiểu giữa hai tâm hồn đồng điệu. Dẫu không nói thành lời, nhưng chỉ vài nét mặt, một nụ cười họ cũng biết được đối phương cần gì, và trở thành bến đỗ “dịu êm”, “lặng lẽ” trong cuộc đời của nhau.

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Ở những vần thơ tiếp người ta lại thấy một vẻ đẹp khác trong tình yêu của người phụ nữ mà muôn đời nay vẫn được ca ngợi ấy là đức tính thủy chung, son sắt trong tình yêu. Ngày xưa em dành trọn cho người thứ tình yêu vụng dại, thì khi ngày sau đến, thứ tình yêu ấy cũng lớn khôn, lại càng thêm tha thiết, chân thành, đằm thắm chứ chẳng một lần nhạt phai. Xuân Quỳnh đã đặt vào câu thơ hai dấu mốc thời gian, “ngày xưa” và “ngày sau”, tức là quá khứ và tương lai, vậy thì ở hiện tại dĩ nhiên cũng chẳng thoát khỏi sự chân thành, nhiệt huyết cùng với “Nỗi khát vọng tình yêu/vẫn bồi hồi trong ngực trẻ”. Dù là khi còn xuân sắc, trẻ dại, hay khi đã đứng tuổi, trung niên trải qua bao đắng cay trong cuộc đời, thì em muôn đời vẫn thế vẫn khao khát tình yêu, thứ bao đời khiến con người ta say mê níu giữ, thứ khiến cho trái tim “bồi hồi trong ngực trẻ”. Thứ khiến cho con người cảm thấy cuộc đời càng có thêm ý nghĩa, càng thêm yêu đời và muốn phấn đấu vì tương lai, muốn kiếm tìm cho mình một niềm hạnh phúc tốt đẹp.

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

Có lẽ rằng khi yêu, ai cũng đều muốn lý giải rằng, tình yêu đôi ta bắt đầu từ đâu, từ khi nào, tại sao ta yêu nhau. Thế nhưng nếu tình yêu dễ lý giải như thế thì có lẽ nền thơ ca về đề tài này đã sớm lụi tàn ý tưởng, bởi lẽ chưa một ai có thể định nghĩa về tình yêu một cách toàn vẹn và chính xác. Nó là tổng hòa của nhiều cung bậc cảm xúc, là món quà kì diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho con người, là thứ tình cảm với muôn vàn cung bậc cảm xúc khiến người ta bước vào thiên đường, nhưng cũng có khi giày vò khiến tâm can ta đau nhói. Xuân Quỳnh nghĩ về mình và người ấy, nghĩ về nguồn gốc của tình yêu đôi lứa, nghĩ về biển và bà chợt nhận ra rằng định nghĩa tình yêu bằng lý trí là một việc làm vô nghĩa. Thay vì mãi quẩn quanh trong câu hỏi “Khi nào ta yêu nhau”, tại sao con người lại không dành phần tâm sức ấy để cống hiến cho tình yêu của mình thêm nồng nàn sâu sắc, lắng nghe từng nhịp đập của đôi tim để cảm nhận thật rõ niềm hạnh phúc quý giá lúc còn có thể.

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương”

Sau những băn khoăn những trăn trở về tình yêu, thì Xuân Quỳnh bắt đầu bước vào những nỗi nhớ, vốn là cảm xúc kinh điển trong thứ tình cảm vốn nhiều rối ren phức tạp này. Dẫu là “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dẫu có là nơi nào đi chăng nữa thì tình yêu vẫn luôn đong đầy và toàn vẹn với những nỗi nhớ tha thiết xuyên không gian và thời gian. Nhớ đến độ “ngày đêm không ngủ được”, nhớ đến độ cả khi đã bước vào giấc ngủ êm đềm, mà hình bóng của tình nhân vẫn còn in đậm trong những giấc mơ triền miên không dứt. Nỗi nhớ ấy lại càng làm nổi bật đức tính thủy chung, son sắt của người phụ nữ trong tình yêu, khi mà đi khắp phương trời, hình bóng của người thương vẫn không khi nào rời khỏi tâm trí, tấm lòng yêu, trái tim yêu vẫn chỉ nhắc nhở về một thân ảnh duy nhất. Mà đối với nữ sĩ ấy là người đàn ông nơi Hà Nội thân yêu!

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

Sau những nỗi nhớ tha thiết, chân thành Xuân Quỳnh đã bộc lộ thêm những quan điểm khác trong tình yêu. Mà ở đây hình tượng sóng là đại diện cho con người trong công cuộc tìm kiếm tình yêu, nhưng có phải lúc nào người ta cũng thuận buồm xuôi gió, mà vẫn gặp phải nhiều trở ngại khó khăn để tìm được hạnh phúc đích thực cho riêng mình. Ví như Xuân Quỳnh chính là cuộc hôn nhân đầu thất bại, nhưng chỉ cần người ta có hy vọng, không mất niềm tin vào tình yêu và cuộc đời, sẵn sàng vượt qua mọi chông gai thách thức thì tin rằng sóng nào cũng tới bờ, người có tình ắt hẳn sẽ về với nhau. Và rồi Xuân Quỳnh cũng nhận thức được năm tháng đang dần trôi đi mà bản thân vẫn còn chơi vơi trên bước đường hạnh phúc, dù bà năm đó mới chỉ 25 tuổi xuân. Điều này đã thôi thúc trong tâm hồn nữ sĩ những khao khát mạnh mẽ về một tình yêu đích thực, khao khát được hòa tan vào biển lớn tình yêu vĩnh cửu, được sống hết mình một lần vì tình yêu cho khỏi uổng phí đời người.

Sóng là một bài thơ có cấu tứ đơn giản, câu từ mộc mạc nhưng đã bộc lộ được hết những tâm trạng của con người khi yêu, đặc biệt ấy là tâm trạng của người phụ nữ. Cho chúng ta thấy những quan điểm rất tiến bộ của Xuân Quỳnh trong tình yêu, khuyến khích người phụ nữ làm chủ cuộc đời mình, tự tin tìm kiếm hạnh phúc. Đồng thời cũng luôn tôn trọng và giữ gìn những phẩm chất truyền thống tốt đẹp, ấy là tấm lòng thủy chung, son sắt, sự dịu dàng, thấu hiểu trong tình yêu lứa đôi muôn đời.

Lưu ý: Bài "Sóng" phân tích đầy đủ và chi tiết nhất chỉ mang tính chất tham khảo.

Bài

Bài "Sóng" phân tích đầy đủ và chi tiết nhất? (Hình internet)

Mục tiêu của giáo dục phổ thông được quy định như thế nào?

Căn cứ theo Điều 29 Luật Giáo dục 2019 quy định về mục tiêu của giáo dục phổ thông như sau:

Mục tiêu của giáo dục phổ thông
1. Giáo dục phổ thông nhằm phát triển toàn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Giáo dục tiểu học nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học; bảo đảm cho học sinh có học vấn phổ thông nền tảng, hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông hoặc chương trình giáo dục nghề nghiệp.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm trang bị kiến thức công dân; bảo đảm cho học sinh củng cố, phát triển kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có hiểu biết thông thường về kỹ thuật, hướng nghiệp; có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, mục tiêu của giáo dục phổ thông:

- Giáo dục phổ thông nhằm phát triển toàn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Giáo dục tiểu học nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.

- Giáo dục trung học cơ sở nhằm củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học; bảo đảm cho học sinh có học vấn phổ thông nền tảng, hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông hoặc chương trình giáo dục nghề nghiệp.

- Giáo dục trung học phổ thông nhằm trang bị kiến thức công dân; bảo đảm cho học sinh củng cố, phát triển kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có hiểu biết thông thường về kỹ thuật, hướng nghiệp; có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông ra sao?

Căn cứ theo Điều 30 Luật Giáo dục 2019 quy định yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông như sau:

Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông
1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học.
2. Yêu cầu về nội dung giáo dục phổ thông ở các cấp học được quy định như sau:
a) Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nền tảng phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, kỹ năng xã hội; có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có nhận thức đạo đức xã hội; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật;
b) Giáo dục trung học cơ sở củng cố, phát triển nội dung đã học ở tiểu học, bảo đảm cho học sinh có hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp;
c) Giáo dục trung học phổ thông củng cố, phát triển nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho học sinh, có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh.
3. Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục.

Như vậy, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông:

- Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học.

-Yêu cầu về nội dung giáo dục phổ thông ở các cấp học được quy định như sau:

+ Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nền tảng phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, kỹ năng xã hội; có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có nhận thức đạo đức xã hội; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật;

+ Giáo dục trung học cơ sở củng cố, phát triển nội dung đã học ở tiểu học, bảo đảm cho học sinh có hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp;

+ Giáo dục trung học phổ thông củng cố, phát triển nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho học sinh, có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh.

- Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục.

12 Lại Thị Ngọc Huyền

- Nội dung nêu trên được NhanSu.vn biên soạn và chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế thông tin chính thức từ nhà tuyển dụng;

- Điều khoản được áp dụng (nếu có) có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Quý khách vui lòng kiểm tra lại trước khi áp dụng;

- Mọi ý kiến thắc mắc về bản quyền, nội dung của bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ email [email protected];

CHỦ QUẢN: Công ty TNHH THƯ VIỆN PHÁP LUẬT

Mã số thuế: 0315459414, cấp ngày: 04/01/2019, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư TP HCM.

Đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Tường Vũ

GP thiết lập trang TTĐTTH số 30/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP.HCM cấp ngày 15/06/2022.

Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm số: 4639/2025/10/SLĐTBXH-VLATLĐ cấp ngày 25/02/2025.

Địa chỉ trụ sở: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
...loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu...
Thư Viện Nhà Đất
...hiểu pháp lý, rõ quy hoạch, giao dịch nhanh...