Nghị luận văn học: Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối hay ngọn đèn soi sáng hiện thực?

Nghị luận văn học là gì? Nghị luận văn học: Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối hay ngọn đèn soi sáng hiện thực?

Đăng bài: 21:30 08/04/2025

Nghị luận văn học là gì?

Nghị luận văn học là một dạng bài trong văn nghị luận, nhằm trình bày, phân tích, đánh giá và bàn luận về các vấn đề liên quan đến văn học, như: tác phẩm, đoạn trích, hình tượng nhân vật, chi tiết nghệ thuật, phong cách tác giả, chủ đề, tư tưởng...

Cụ thể hơn thì nghị luận văn học là kiểu bài sử dụng lập luận để làm rõ giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học hoặc một khía cạnh trong tác phẩm.

Nghị luận văn học: Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối hay ngọn đèn soi sáng hiện thực?

“Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối hay ngọn đèn soi sáng hiện thực?” – đây là một câu hỏi không chỉ gợi mở mà còn đầy tính triết lý, buộc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về vai trò và bản chất của nghệ thuật trong đời sống. Có người cho rằng nghệ thuật là một thế giới mộng tưởng, một phương tiện ru ngủ con người khỏi thực tại đầy những khổ đau, phi lý. Lại có người nhìn nhận nghệ thuật như một chiếc đèn pha, rọi ánh sáng vào những ngóc ngách tối tăm nhất của xã hội và con người. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng nghệ thuật vừa là ánh trăng lừa dối, vừa là ngọn đèn soi sáng hiện thực. Hai đặc tính ấy không hề mâu thuẫn, mà bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh đa diện và trường tồn của nghệ thuật.

Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối – vì nó dẫn ta vào một thế giới khác, dịu dàng và mộng tưởng

Ánh trăng từ xưa đến nay luôn gắn với cái đẹp, sự dịu dàng, huyền ảo nhưng cũng không thật, không rõ ràng. Khi nói “nghệ thuật là ánh trăng lừa dối”, ý chỉ rằng nghệ thuật có khả năng tạo ra một thế giới không giống hiện thực, nơi con người có thể tạm quên đi những lo âu, đau khổ, những điều trần trụi của cuộc sống để đắm mình vào cái đẹp, vào mộng tưởng.

Trong văn học, chủ nghĩa lãng mạn là một minh chứng rõ ràng cho vai trò “ánh trăng” của nghệ thuật. Những tác phẩm như thơ của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê... đều phác họa thế giới mơ mộng, nơi tình yêu, cái đẹp và cảm xúc lên ngôi. Người đọc không tìm đến những bài thơ ấy để hiểu rõ hơn về hiện thực xã hội, mà để cảm thấy được yêu thương, được sống sâu sắc hơn trong tâm hồn.

Thậm chí trong âm nhạc, điện ảnh hay hội họa, nghệ thuật còn được sử dụng như một liều thuốc tinh thần, giúp con người vượt qua khủng hoảng, bất hạnh. Một bản nhạc nhẹ nhàng, một thước phim đầy màu sắc có thể khiến con người tạm quên đi sự mỏi mệt của đời sống thường nhật. Nếu hiện thực là quá khắc nghiệt, thì nghệ thuật – như ánh trăng – là nơi để tâm hồn trú ngụ, dù chỉ là trong giây lát.

Nhưng nghệ thuật cũng là ngọn đèn soi sáng hiện thực – khi nó dám phơi bày sự thật và phản ánh sâu sắc đời sống

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc ru ngủ và dẫn con người vào ảo mộng, nghệ thuật sẽ trở nên vô nghĩa trước những đau thương, bất công và những vấn đề nhức nhối của xã hội. Vì vậy, nghệ thuật còn có một sứ mệnh khác: phản ánh hiện thực, phơi bày sự thật và thức tỉnh lương tri con người.

Trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam đầu thế kỷ XX, những tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... chính là ngọn đèn mạnh mẽ soi rọi vào một xã hội đầy rẫy những bất công. Trong Chí Phèo, Nam Cao không chỉ dựng lên bi kịch của một cá nhân bị xã hội vùi dập, mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ đối với hệ thống phi nhân tính đã cướp đi nhân phẩm và quyền sống của con người. Chí Phèo không chỉ là một nhân vật văn học – anh là đại diện cho hàng vạn kiếp người bị gạt ra ngoài rìa xã hội.

Trên bình diện thế giới, bức tranh Guernica của Pablo Picasso là một biểu tượng nghệ thuật có sức mạnh chính trị khủng khiếp. Không cần lời, không cần ngôn ngữ, chỉ với những hình khối và gam màu lạnh, Picasso đã làm cả thế giới chấn động trước nỗi đau của chiến tranh.

Thậm chí, nghệ thuật còn soi sáng hiện thực nội tâm con người. Những tác phẩm của Fyodor Dostoyevsky như Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov… không chỉ là tiểu thuyết, mà là cuộc hành trình đi sâu vào cái “tôi”, vào sự dằn vặt, bản năng, sự đấu tranh giữa thiện và ác trong mỗi con người. Những tác phẩm ấy đã khiến nghệ thuật trở thành một ngọn đèn – không chỉ soi sáng xã hội, mà còn chiếu rọi tận sâu thẳm tâm hồn con người.

Nghệ thuật cần cả ánh trăng và ngọn đèn

Nói như vậy để thấy, nghệ thuật không nên và cũng không thể chỉ là ánh trăng lừa dối, cũng không nên chỉ là ngọn đèn khô khan. Cái đẹp của nghệ thuật nằm ở sự hài hòa giữa mộng và thực, giữa cảm xúc và lý trí, giữa trốn chạy và đối diện.

Một tác phẩm nghệ thuật hay là tác phẩm vừa khiến người ta rung động, vừa khiến người ta suy nghĩ. Nó có thể bắt đầu bằng một mộng tưởng dịu dàng, nhưng kết thúc bằng một sự thật khiến ta trăn trở. Hoặc ngược lại, nó vẽ nên một hiện thực u tối, nhưng từ đó gieo vào lòng người một tia hy vọng – ánh sáng của niềm tin, của lòng trắc ẩn.

Kết luận

Nghệ thuật không chỉ là ánh trăng – nơi con người mơ mộng, cũng không chỉ là ngọn đèn – nơi con người đối diện với sự thật. Nghệ thuật là sự đan xen giữa cả hai, là tấm gương phản chiếu hiện thực bằng ánh sáng của cảm xúc và cái đẹp. Chính sự đa diện, khó nắm bắt ấy khiến nghệ thuật trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống, là nơi trú ngụ của tâm hồn, và là tiếng nói của nhân loại trước mọi đổi thay của thời đại.

Nghị luận văn học: Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối hay ngọn đèn soi sáng hiện thực?

Nghị luận văn học: Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối hay ngọn đèn soi sáng hiện thực? (Hình từ Internet)

Kỹ năng cần có khi giáo viên dạy nghị luận văn học là gì?

Khi dạy nghị luận văn học – một mảng khó và mang tính cảm thụ cao – giáo viên không chỉ cần kiến thức chuyên môn mà còn phải có nhiều kỹ năng mềm để truyền đạt hiệu quả, tạo hứng thú cho học sinh và phát triển tư duy văn học.

Dưới đây là những kỹ năng cốt lõi mà giáo viên cần có khi dạy nghị luận văn học:

1. Kỹ năng phân tích văn bản sâu sắc

Giáo viên phải nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học.

Phân tích được hình tượng nhân vật, chủ đề tư tưởng, ngôn ngữ nghệ thuật, bối cảnh lịch sử – xã hội.

Biết cách liên hệ, so sánh, đối chiếu các tác phẩm để mở rộng tư duy cho học sinh.

Ví dụ: Khi dạy về “Chí Phèo”, có thể gợi mở thêm về “Lão Hạc”, “Vợ nhặt” để học sinh thấy được nhiều khía cạnh của hình tượng người nông dân.

2. Kỹ năng hướng dẫn học sinh lập luận

Rèn cho học sinh cách tư duy hệ thống: biết mở bài – dẫn dắt vấn đề, thân bài – trình bày luận điểm, kết bài – khẳng định lại.

Hướng dẫn học sinh phát triển luận điểm, luận cứ, sử dụng dẫn chứng một cách logic và mạch lạc.

Giúp học sinh tránh kiểu viết “cảm tính, lan man” thường thấy khi viết văn nghị luận văn học.

Ví dụ: Với một đề về giá trị hiện thực trong văn học, giáo viên cần giúp học sinh biết cách chọn dẫn chứng tiêu biểu và phân tích đúng trọng tâm.

3. Kỹ năng tạo cảm hứng và khơi gợi cảm xúc

Không chỉ dạy “kiến thức”, giáo viên cần truyền được tình yêu văn học, khơi gợi cảm xúc cho học sinh.

Sử dụng các phương pháp kể chuyện, chiếu phim, đọc diễn cảm, thảo luận nhóm… để lớp học sinh động.

Dẫn dắt học sinh đồng cảm với nhân vật, thấu hiểu số phận con người trong tác phẩm.

Ví dụ: Khi dạy bài “Vợ nhặt”, giáo viên có thể đặt câu hỏi: “Nếu là Tràng, em có dám ‘nhặt’ vợ giữa thời đói khát không?” → tạo chiều sâu cảm xúc và sự nhập vai.

4. Kỹ năng thiết kế hoạt động dạy học phù hợp

Thiết kế hoạt động phân tích, thảo luận, phản biện để học sinh chủ động tham gia.

Biết dùng sơ đồ tư duy, phiếu học tập, học liệu số để hỗ trợ việc học hiệu quả hơn.

Linh hoạt áp dụng phương pháp dạy học tích cực: “Bàn tay nặn bột”, “dạy học theo dự án”, “dạy học theo trạm”…

5. Kỹ năng nhận xét, sửa bài và nâng tầm tư duy học sinh

Chấm bài nghị luận văn học không chỉ là sửa lỗi – mà còn là giúp học sinh rèn tư duy phản biện, chính xác và sáng tạo.

Nhận xét bài viết phải cụ thể, mang tính xây dựng, có định hướng cải thiện rõ ràng.

Biết khơi gợi những “ý văn riêng”, tư duy cá nhân của học sinh thay vì áp đặt khuôn mẫu.

6. Kỹ năng cập nhật tri thức văn học – xã hội

Văn học luôn gắn với cuộc sống – nên giáo viên phải luôn cập nhật bối cảnh xã hội, các vấn đề thời sự, tâm lý thế hệ học trò.

Dẫn chứng liên hệ từ phim ảnh, nhạc, thời sự... sẽ giúp học sinh thấy nghị luận văn học không phải là thứ xa vời.

Ví dụ: Khi nói về bi kịch tha hóa của Chí Phèo, có thể liên hệ với các nhân vật “trượt dốc” trong xã hội hiện đại – để học sinh thấy sự gần gũi.

7. Kỹ năng lắng nghe và phát hiện tiềm năng học sinh

Không học sinh nào giống nhau: có em giỏi diễn đạt, có em giỏi cảm thụ, có em chỉ mới “le lói” tư duy.

Giáo viên giỏi là người phát hiện tiềm năng, khơi dậy chất văn, chất người nơi học sinh – dù chỉ là một câu viết lạ, một góc nhìn độc đáo.

37 Nguyễn Đăng Huy

- Nội dung nêu trên được NhanSu.vn biên soạn và chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế cho các tư vấn chuyên sâu từ chuyên gia.

- Điều khoản được áp dụng (nếu có) có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Quý khách vui lòng kiểm tra lại thông tin trước khi áp dụng.

- Mọi ý kiến thắc mắc về bản quyền, nội dung của bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ email [email protected];

CHỦ QUẢN: Công ty TNHH THƯ VIỆN PHÁP LUẬT

Mã số thuế: 0315459414, cấp ngày: 04/01/2019, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư TP HCM.

Đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Tường Vũ

GP thiết lập trang TTĐTTH số 30/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP.HCM cấp ngày 15/06/2022.

Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm số: 4639/2025/10/SLĐTBXH-VLATLĐ cấp ngày 25/02/2025.

Địa chỉ trụ sở: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
...loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu...
Thư Viện Nhà Đất
...hiểu pháp lý, rõ quy hoạch, giao dịch nhanh...