Quyết định 2696/QĐ-UBND phê duyệt ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng thuộc tỉnh Sơn La, bổ sung năm 2025
| Số hiệu | 2696/QĐ-UBND |
| Ngày ban hành | 30/10/2025 |
| Ngày có hiệu lực | 30/10/2025 |
| Loại văn bản | Quyết định |
| Cơ quan ban hành | Tỉnh Sơn La |
| Người ký | Nguyễn Đình Việt |
| Lĩnh vực | Xây dựng - Đô thị,Giao thông - Vận tải |
|
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 2696/QĐ-UBND |
Sơn La, ngày 30 tháng 10 năm 2025 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT NGÂN HÀNG DỮ LIỆU TÊN ĐƯỜNG, TÊN PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG THUỘC TỈNH SƠN LA, BỔ SUNG NĂM 2025
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025;
Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Tờ trình số 283/TTr-SVHTT&DL ngày 17/10/2025.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng thuộc tỉnh Sơn La, bổ sung năm 2025.
(Gửi kèm theo biểu phụ lục chi tiết).
Điều 2. Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng thuộc tỉnh Sơn La được ban hành trên đây là căn cứ để các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý đô thị và công tác đặt tên, đổi tên đường, phố, công trình công cộng của tỉnh theo quy định của pháp luật. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các ban ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, bổ sung Ngân hàng dữ liệu tên đường, phố và công trình công cộng phù hợp với điều kiện của địa phương.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ tịch UBND các xã, phường; Thủ trưởng các Sở, ngành, đơn vị có liên quan và các thành viên hội đồng tư vấn về đặt, đổi tên đường, phố và công trình công cộng tỉnh Sơn La chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./.
|
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN |
NGÂN
HÀNG DỮ LIỆU TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA, BỔ
SUNG NĂM 2025
(Ban hành kèm theo Quyết định số 2696/QĐ-UBND ngày 30 tháng 10 năm 2025 của
UBND tỉnh Sơn La)
|
STT |
Tên gọi |
Nội dung ý nghĩa |
|
1 |
Lê Giản (Tô Gĩ ) |
Lê Giản (Tô Gĩ) (1911 - 2003), quê ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang (cũ), tỉnh Hưng Yên. Năm 1926-1929, ông tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, được Học sinh đoàn, một tổ chức của Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, sau trở thành Đông dương Cộng sản Đảng kết nạp vào hội. Năm 1930 vào Nam hoạt động (cùng các đồng chí: Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu). Năm 1931 từ Nam kỳ trở lại miền Bắc, sau đó cùng gia đình chuyển xuống sinh sống ở Hải Phòng và tham gia hoạt động cách mạng ở đây. Năm 1940 bị đế quốc Pháp bắt đày lên Sơn La, cho đến tháng 6/1941 thì bị đày đi Madagascar. Tháng 8, năm 1944 ông được quân đồng minh huấn luyện và đưa về nước. Máy bay chở ông và thả dù về chiến khu Việt Bắc với nhiệm vụ kết nối chuyên gia quân sự giúp đỡ cách mạng Việt Nam . Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, tháng 10 năm 1945, ông được Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa điều động về Hà Nội và cử giữ chức vụ Phó giám đốc Sở Liêm phóng Bắc bộ. Ông là người đứng đầu ngành Công an Việt Nam từ năm 1946 cho đến năm 1952, tương đương với Bộ trưởng Bộ Công an ngày nay. Ngoài ra, ông còn từng giữ các chức vụ Vụ trưởng Vụ Trị an hành chính, Bộ Công an (1955 - 1958), Thẩm phán, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (1958 - 1979). Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 2011. |
|
2 |
Chu Đình Xương (Chu Đình Khôi) |
Chu Đình Xương (Chu Đình Khôi) sinh năm 1916, tại xã Thái Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (cũ) nay là tỉnh Bắc Ninh. Năm 25 tuổi, ông tham gia hoạt động cách mạng trong tổ chức "Vận động ái hữu công nhân". Từ năm 1939 - 1940, ông tham gia tổ chức "Thanh niên phản đế" ở Hà Nội. Tháng 12/1940, ông bị thực dân Pháp bắt, bị tra tấn dã man, sau đó thực dân Pháp đưa ông ra xét xử tại tòa Đại hình Hỏa Lò rồi bị đày lên nhà tù Sơn La. Tháng 3/1945, tại Sơn La, Nhật - Pháp xung đột, Pháp di chuyển tù nhân sang Nghĩa Lộ để tránh bạo động. Nhưng giữ 15 tù nhân ở lại làm con tin, trong đó có đồng chí Chu Đình Xương. Với kinh nghiệm dày dạn, ông đã cảm hóa được lính khố xanh địa phương bỏ vũ khí về với cách mạng và cùng nhau cướp vũ khí của lính lê dương. Ông khẩn trương trở về Hà Nội và tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, ông được cử làm Trưởng ban Vận động tài chính Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ. Ngày 25/8/1945 làm Giám đốc Liêm phóng Bắc Bộ. Với cương vị là Giám đốc Liêm Phóng Bắc Bộ ông đã chỉ đạo và tổ chức đảm bảo an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên của Chính phủ trong Lễ Tuyên ngôn độc lập. Năm 1946, ông chuyển sang làm Giám đốc Liêm phóng Nam Trung Bộ. Đến năm 1949, đồng chí Xương theo đồng chí Phạm Văn Đồng vào miền Nam xây dựng lực lượng Công an, đảm nhiệm trọng trách Giám đốc Sở Công an Liên khu V. Sau năm 1954 ông chuyển sang Vụ Văn hóa đối ngoại Bộ Văn hóa. Sau đó là Phó Văn phòng Bộ Văn hóa cho đến khi nghỉ hưu. Đồng chí được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. |
|
4 |
Trần Danh Tuyên (Nguyễn Văn Luận) |
Trần Danh Tuyên (Nguyễn Văn Luận), sinh năm 1911 tại xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang ( cũ) , nay là tỉnh Bắc Ninh. Ông tham gia cách mạng từ năm 1935, làm thợ gò nhà máy đúc kẽm tại Quảng Yên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 4 năm 1937. Năm 1940, ông bị bắt cùng với một số đồng chí khác, bị tra tấn dã man nhưng không có đủ căn cứ, kẻ địch vẫn xử tù khổ sai và đày lên Nhà tù Sơn La, Tại Nhà tù Sơn La, ông được tín nhiệm chọn tham gia hội nghị thành lập chi bộ lâm thời Nhà tù Sơn La. Ông tích cực hoạt động trong công tác đào tạo cán bộ của Chi bộ Nhà tù, góp phần biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 ông được cử giữ chức Bí thư Thành ủy Hà Nội một thời gian ngắn, người thay ông là ông Hoàng Tùng. Sau đó ông được cử giữ các chức vụ Xứ ủy viên Bắc Kỳ; Thường vụ Khu ủy Liên khu I; Bí thư Tỉnh ủy Nam Định. Năm 1951 ông được cử làm Trưởng tiểu ban Công vận theo Nghị quyết của Ban Bí thư; Năm 1954 ông được cử tham gia Đảng ủy Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp quản Hà Nội, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Đảng ủy tiếp quản gồm 11 người: Trần Quốc Hoàn, Trần Danh Tuyên, Lê Trung Toản, Lê Quốc Thân, Vương Thừa Vũ, Khuất Duy Tiến, Trần Duy Hưng, Trần Sâm, Minh Việt, Nguyễn Tài, Quang Nghĩa. Tháng 11 năm 1954 ông được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội. Sau đó ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội (1955 - 1961), Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính TP Hà Nội, kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Hà nội (1955 - 1956). Năm 1960 đến năm 1976, ông là Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III (1960-1976). Ông đảm nhận các chức vụ: Phó trưởng Ban Công nghiệp Trung ương (1961). Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam liên tục từ khóa I đến khóa VI, Ủy viên Ủy ban thống nhất của Quốc hội vào năm 1963. Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch và ngân sách Quốc hội khóa III (1964 - 1967). Từ tháng 2/1967 đến tháng 12/1969 là Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng. Sau đó, giữ chức Bộ trưởng Bộ Vật tư (Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Vật tư, nay là Bộ Công Thương). Từ năm 1969-1976, đồng chí là Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Nhân dân Á-Phi của Việt Nam. Từ giữa năm 1952 đến tháng 8/1954 ông giữ chức vụ Tổng thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa I, sau đó là Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam khóa II thời kỳ 1961-1974. năm 2008 ông được truy tặng Huân chương Sao Vàng. |
|
5 |
Văn Tân (Trần Đức Sắc) |
Văn Tân (Trần Đức Sắc), (1913 -1988) ở làng Kim Hoàng, Thọ Nam (thuộc xã Vân Canh, huyện Hoài Đức (cũ), Hà Nội). Ông đã hoạt động cách mạng từ năm 1929. Năm 1937, trong phong trào Mặt trận dân chủ, Văn Tân làm báo Tin tức cùng với Trường Chinh, Trần Huy Liệu, Trần Đình Long, Võ Nguyên Giáp... Ông bị mật thám theo dõi, bắt được và tra tấn gãy chân sau đó năm 1941, ông bị đày lên nhà tù Sơn La. Với kiến thức sâu rộng, lối viết thuyết phục, kinh nghiệm viết báo nhiều năm, ông tiếp tục cùng với Trần Huy Liệu viết báo “Suối reo” - “cơ quan ngôn luận” bí mật của chi bộ Nhà tù Sơn La. Khi chi bộ nhận được tài liệu bí mật từ các tổ chức Đảng dưới xuôi theo đoàn công nhân mang lên, ông đã biên tập, viết lại để truyền tin đi các phòng giam, nối liền thông tin nội bộ tù nhân chính trị. Cuối năm 1942, hết hạn 03 năm tù ông bị đưa đi an trí, lúc đầu tổ chức trại an trí ở Thái Nguyên, rồi đổi lên Hà Giang, sau lại chuyển về Nghĩa Lộ (Yên Bái) để giam giữ không thời hạn. Những năm bị giam cầm trong ngục tù nhưng nhiệt huyết trong ông thì không hề suy giảm, bầu nhiệt huyết đó được truyền vào 25 cuốn sách, 117 bài nghiên cứu của ông để lại cho hậu thế. Giai đoạn 1952-1955, ông giảng dạy ở khu học xá trung ương tại Trung Quốc, rồi về công tác tại Ban nghiên cứu Văn học, Lịch sử, Địa lý, sau đổi tên là Viện sử học. Từ năm 1961-1976, ông là Thư ký tòa soạn tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Gần 40 năm làm việc, ông đã cho ra mắt bạn đọc nhiều bài nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Ông được đề nghị phong hàm Giáo sư đợt đầu năm 1980. Sự nghiệp sử học của ông với nhiều cuốn sách, hàng trăm luận văn đăng trên các tạp chí, các báo. Trong đó có những quyển có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn, đáng kể nhất là cụm công trình "Cách mạng Tây Sơn"; "Nguyễn Huệ - Con người và sự nghiệp" đã được Giải thưởng Nhà nước. |
|
6 |
Trần Văn Lan (Đen, Giáp) |
Trần Văn Lan (Đen, Giáp), sinh năm 1902 tại Hữu Bị, Mỹ Trung, Mỹ Lộc, Nam Định (cũ), nay là tỉnh Ninh Bình. Tháng 6/1927, ông tham gia tổ chức Cách mạng Thanh niên đồng chí hội tại thành phố Nam Định. Được sự tín nhiệm, ông được bầu làm bí thư chi bộ đầu tiên gồm 8 người tại nhà máy sợi Nam Định. Tháng 9/1928, tại hội nghị cánh đồng làng Kênh trên thuyền về mùa nước lớn, được cử vào ban chấp hành tỉnh ủy Nam Định. Tháng 12/1929, Được đề cử vào ban chấp hành tổng công hội đỏ. Tháng 10/1930, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất tại Hương Cảng, ông được công nhận là Ủy viên Trung ương chính thức. Tháng 3/1931 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai họp tại Sài Gòn, sau hội nghị này địch khủng bố gắt gao một số đồng chí lãnh tụ của Đảng bị bắt. Ngày 20/4/1931, ông và các đồng chí trong Ban Tài chính Trung ương là Ngô Đình Mẫn, Nguyễn Bá Biên…bị địch vây bắt, địch biết ông là ủy viên Trung ương địch dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ mua chuộc, đánh đập dã man, nhưng ông không hề khuất phục. Phiên tòa ngày 15 - 17/11/1931, chúng kết án ông khổ sai chung thân. Ngày 03/3/1933 ông bị đày lên nhà tù Sơn La. Hậu quả của những ngày tháng bị tra tấn, ông ốm nặng. Nhận thấy ông là một nhân vật quan trọng, tháng 12/1933, ông có danh sách bị chuyển đi nhà tù Côn Đảo. Nhưng chưa kịp lên đường ông đã hy sinh tại Nhà tù Sơn La. Để tưởng nhớ người chiến sĩ cách mạng tại phường Cát Bi, quận Ngô Quyền (cũ), Hải Phòng đã có một đường phố mang tên Trần Văn Lan. |
|
7 |
Nguyễn Đình Thử |
Nguyễn Đình Thử, sinh năm 1933, quê ở xã Nam Thắng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình (cũ), nay là thành phố Hải Phòng. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thiếu úy, đảng viên, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Sơn La. Từ năm 1954 đồng chí công tác ở Tây Bắc. Khi địch xâm nhập vùng biên giới Việt - Lào đồng chí đã kiên trì thuyết phục đồng bào định cư làm ruộng cấy lúa, ổn định sản xuất và bắt được tên Thào A-dơ, tên phỉ cáo già cùng 12 tên phỉ khác, chuẩn bị vũ trang gây bạo loạn ở vùng biên giới. Ông được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang và nhiều Huân chương Chiến công các loại. Được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. |
|
8 |
Lưu Hữu Phước |
Lưu Hữu Phước (1921-1989), quê ở huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng (cũ), nay là Thành phố Cần Thơ. Trước 1945, ông hoạt động trong phong trào sinh viên yêu nước. Sau Cách mạng ông đảm nhiệm công tác xuất bản, thông tin, tuyên truyền, báo chí, văn học, nghệ thuật và thanh, thiếu niên. Sau 1945, ông giữ nhiều chức vụ: Trưởng ban nghiên cứu âm nhạc, Vụ trưởng Vụ Nhạc-múa, Ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Phó tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1965, ông trở về Nam kháng chiến chống Mỹ làm Trưởng tiểu ban văn nghệ của Trung ương cục, Bộ trưởng Bộ Thông tin - Văn hoá trong Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Ông còn là đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện Âm nhạc. Giáo sư, Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức. Là nhạc sĩ với các bút danh khác như: Huỳnh Minh Siêng, Long Hưng, Hồng Chí… các ca khúc để đời của ông có Tiếng gọi thanh niên, Giải phóng miền Nam, Lên Đàng, Tình Bác sáng đời ta, Khúc khải hoàn... Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. |
|
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 2696/QĐ-UBND |
Sơn La, ngày 30 tháng 10 năm 2025 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT NGÂN HÀNG DỮ LIỆU TÊN ĐƯỜNG, TÊN PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG THUỘC TỈNH SƠN LA, BỔ SUNG NĂM 2025
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025;
Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Tờ trình số 283/TTr-SVHTT&DL ngày 17/10/2025.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng thuộc tỉnh Sơn La, bổ sung năm 2025.
(Gửi kèm theo biểu phụ lục chi tiết).
Điều 2. Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng thuộc tỉnh Sơn La được ban hành trên đây là căn cứ để các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý đô thị và công tác đặt tên, đổi tên đường, phố, công trình công cộng của tỉnh theo quy định của pháp luật. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các ban ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, bổ sung Ngân hàng dữ liệu tên đường, phố và công trình công cộng phù hợp với điều kiện của địa phương.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ tịch UBND các xã, phường; Thủ trưởng các Sở, ngành, đơn vị có liên quan và các thành viên hội đồng tư vấn về đặt, đổi tên đường, phố và công trình công cộng tỉnh Sơn La chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./.
|
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN |
NGÂN
HÀNG DỮ LIỆU TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA, BỔ
SUNG NĂM 2025
(Ban hành kèm theo Quyết định số 2696/QĐ-UBND ngày 30 tháng 10 năm 2025 của
UBND tỉnh Sơn La)
|
STT |
Tên gọi |
Nội dung ý nghĩa |
|
1 |
Lê Giản (Tô Gĩ ) |
Lê Giản (Tô Gĩ) (1911 - 2003), quê ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang (cũ), tỉnh Hưng Yên. Năm 1926-1929, ông tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, được Học sinh đoàn, một tổ chức của Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, sau trở thành Đông dương Cộng sản Đảng kết nạp vào hội. Năm 1930 vào Nam hoạt động (cùng các đồng chí: Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu). Năm 1931 từ Nam kỳ trở lại miền Bắc, sau đó cùng gia đình chuyển xuống sinh sống ở Hải Phòng và tham gia hoạt động cách mạng ở đây. Năm 1940 bị đế quốc Pháp bắt đày lên Sơn La, cho đến tháng 6/1941 thì bị đày đi Madagascar. Tháng 8, năm 1944 ông được quân đồng minh huấn luyện và đưa về nước. Máy bay chở ông và thả dù về chiến khu Việt Bắc với nhiệm vụ kết nối chuyên gia quân sự giúp đỡ cách mạng Việt Nam . Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, tháng 10 năm 1945, ông được Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa điều động về Hà Nội và cử giữ chức vụ Phó giám đốc Sở Liêm phóng Bắc bộ. Ông là người đứng đầu ngành Công an Việt Nam từ năm 1946 cho đến năm 1952, tương đương với Bộ trưởng Bộ Công an ngày nay. Ngoài ra, ông còn từng giữ các chức vụ Vụ trưởng Vụ Trị an hành chính, Bộ Công an (1955 - 1958), Thẩm phán, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (1958 - 1979). Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 2011. |
|
2 |
Chu Đình Xương (Chu Đình Khôi) |
Chu Đình Xương (Chu Đình Khôi) sinh năm 1916, tại xã Thái Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (cũ) nay là tỉnh Bắc Ninh. Năm 25 tuổi, ông tham gia hoạt động cách mạng trong tổ chức "Vận động ái hữu công nhân". Từ năm 1939 - 1940, ông tham gia tổ chức "Thanh niên phản đế" ở Hà Nội. Tháng 12/1940, ông bị thực dân Pháp bắt, bị tra tấn dã man, sau đó thực dân Pháp đưa ông ra xét xử tại tòa Đại hình Hỏa Lò rồi bị đày lên nhà tù Sơn La. Tháng 3/1945, tại Sơn La, Nhật - Pháp xung đột, Pháp di chuyển tù nhân sang Nghĩa Lộ để tránh bạo động. Nhưng giữ 15 tù nhân ở lại làm con tin, trong đó có đồng chí Chu Đình Xương. Với kinh nghiệm dày dạn, ông đã cảm hóa được lính khố xanh địa phương bỏ vũ khí về với cách mạng và cùng nhau cướp vũ khí của lính lê dương. Ông khẩn trương trở về Hà Nội và tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, ông được cử làm Trưởng ban Vận động tài chính Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ. Ngày 25/8/1945 làm Giám đốc Liêm phóng Bắc Bộ. Với cương vị là Giám đốc Liêm Phóng Bắc Bộ ông đã chỉ đạo và tổ chức đảm bảo an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên của Chính phủ trong Lễ Tuyên ngôn độc lập. Năm 1946, ông chuyển sang làm Giám đốc Liêm phóng Nam Trung Bộ. Đến năm 1949, đồng chí Xương theo đồng chí Phạm Văn Đồng vào miền Nam xây dựng lực lượng Công an, đảm nhiệm trọng trách Giám đốc Sở Công an Liên khu V. Sau năm 1954 ông chuyển sang Vụ Văn hóa đối ngoại Bộ Văn hóa. Sau đó là Phó Văn phòng Bộ Văn hóa cho đến khi nghỉ hưu. Đồng chí được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. |
|
4 |
Trần Danh Tuyên (Nguyễn Văn Luận) |
Trần Danh Tuyên (Nguyễn Văn Luận), sinh năm 1911 tại xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang ( cũ) , nay là tỉnh Bắc Ninh. Ông tham gia cách mạng từ năm 1935, làm thợ gò nhà máy đúc kẽm tại Quảng Yên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 4 năm 1937. Năm 1940, ông bị bắt cùng với một số đồng chí khác, bị tra tấn dã man nhưng không có đủ căn cứ, kẻ địch vẫn xử tù khổ sai và đày lên Nhà tù Sơn La, Tại Nhà tù Sơn La, ông được tín nhiệm chọn tham gia hội nghị thành lập chi bộ lâm thời Nhà tù Sơn La. Ông tích cực hoạt động trong công tác đào tạo cán bộ của Chi bộ Nhà tù, góp phần biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 ông được cử giữ chức Bí thư Thành ủy Hà Nội một thời gian ngắn, người thay ông là ông Hoàng Tùng. Sau đó ông được cử giữ các chức vụ Xứ ủy viên Bắc Kỳ; Thường vụ Khu ủy Liên khu I; Bí thư Tỉnh ủy Nam Định. Năm 1951 ông được cử làm Trưởng tiểu ban Công vận theo Nghị quyết của Ban Bí thư; Năm 1954 ông được cử tham gia Đảng ủy Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp quản Hà Nội, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Đảng ủy tiếp quản gồm 11 người: Trần Quốc Hoàn, Trần Danh Tuyên, Lê Trung Toản, Lê Quốc Thân, Vương Thừa Vũ, Khuất Duy Tiến, Trần Duy Hưng, Trần Sâm, Minh Việt, Nguyễn Tài, Quang Nghĩa. Tháng 11 năm 1954 ông được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội. Sau đó ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội (1955 - 1961), Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính TP Hà Nội, kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Hà nội (1955 - 1956). Năm 1960 đến năm 1976, ông là Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III (1960-1976). Ông đảm nhận các chức vụ: Phó trưởng Ban Công nghiệp Trung ương (1961). Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam liên tục từ khóa I đến khóa VI, Ủy viên Ủy ban thống nhất của Quốc hội vào năm 1963. Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch và ngân sách Quốc hội khóa III (1964 - 1967). Từ tháng 2/1967 đến tháng 12/1969 là Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng. Sau đó, giữ chức Bộ trưởng Bộ Vật tư (Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Vật tư, nay là Bộ Công Thương). Từ năm 1969-1976, đồng chí là Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Nhân dân Á-Phi của Việt Nam. Từ giữa năm 1952 đến tháng 8/1954 ông giữ chức vụ Tổng thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa I, sau đó là Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam khóa II thời kỳ 1961-1974. năm 2008 ông được truy tặng Huân chương Sao Vàng. |
|
5 |
Văn Tân (Trần Đức Sắc) |
Văn Tân (Trần Đức Sắc), (1913 -1988) ở làng Kim Hoàng, Thọ Nam (thuộc xã Vân Canh, huyện Hoài Đức (cũ), Hà Nội). Ông đã hoạt động cách mạng từ năm 1929. Năm 1937, trong phong trào Mặt trận dân chủ, Văn Tân làm báo Tin tức cùng với Trường Chinh, Trần Huy Liệu, Trần Đình Long, Võ Nguyên Giáp... Ông bị mật thám theo dõi, bắt được và tra tấn gãy chân sau đó năm 1941, ông bị đày lên nhà tù Sơn La. Với kiến thức sâu rộng, lối viết thuyết phục, kinh nghiệm viết báo nhiều năm, ông tiếp tục cùng với Trần Huy Liệu viết báo “Suối reo” - “cơ quan ngôn luận” bí mật của chi bộ Nhà tù Sơn La. Khi chi bộ nhận được tài liệu bí mật từ các tổ chức Đảng dưới xuôi theo đoàn công nhân mang lên, ông đã biên tập, viết lại để truyền tin đi các phòng giam, nối liền thông tin nội bộ tù nhân chính trị. Cuối năm 1942, hết hạn 03 năm tù ông bị đưa đi an trí, lúc đầu tổ chức trại an trí ở Thái Nguyên, rồi đổi lên Hà Giang, sau lại chuyển về Nghĩa Lộ (Yên Bái) để giam giữ không thời hạn. Những năm bị giam cầm trong ngục tù nhưng nhiệt huyết trong ông thì không hề suy giảm, bầu nhiệt huyết đó được truyền vào 25 cuốn sách, 117 bài nghiên cứu của ông để lại cho hậu thế. Giai đoạn 1952-1955, ông giảng dạy ở khu học xá trung ương tại Trung Quốc, rồi về công tác tại Ban nghiên cứu Văn học, Lịch sử, Địa lý, sau đổi tên là Viện sử học. Từ năm 1961-1976, ông là Thư ký tòa soạn tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Gần 40 năm làm việc, ông đã cho ra mắt bạn đọc nhiều bài nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Ông được đề nghị phong hàm Giáo sư đợt đầu năm 1980. Sự nghiệp sử học của ông với nhiều cuốn sách, hàng trăm luận văn đăng trên các tạp chí, các báo. Trong đó có những quyển có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn, đáng kể nhất là cụm công trình "Cách mạng Tây Sơn"; "Nguyễn Huệ - Con người và sự nghiệp" đã được Giải thưởng Nhà nước. |
|
6 |
Trần Văn Lan (Đen, Giáp) |
Trần Văn Lan (Đen, Giáp), sinh năm 1902 tại Hữu Bị, Mỹ Trung, Mỹ Lộc, Nam Định (cũ), nay là tỉnh Ninh Bình. Tháng 6/1927, ông tham gia tổ chức Cách mạng Thanh niên đồng chí hội tại thành phố Nam Định. Được sự tín nhiệm, ông được bầu làm bí thư chi bộ đầu tiên gồm 8 người tại nhà máy sợi Nam Định. Tháng 9/1928, tại hội nghị cánh đồng làng Kênh trên thuyền về mùa nước lớn, được cử vào ban chấp hành tỉnh ủy Nam Định. Tháng 12/1929, Được đề cử vào ban chấp hành tổng công hội đỏ. Tháng 10/1930, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất tại Hương Cảng, ông được công nhận là Ủy viên Trung ương chính thức. Tháng 3/1931 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai họp tại Sài Gòn, sau hội nghị này địch khủng bố gắt gao một số đồng chí lãnh tụ của Đảng bị bắt. Ngày 20/4/1931, ông và các đồng chí trong Ban Tài chính Trung ương là Ngô Đình Mẫn, Nguyễn Bá Biên…bị địch vây bắt, địch biết ông là ủy viên Trung ương địch dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ mua chuộc, đánh đập dã man, nhưng ông không hề khuất phục. Phiên tòa ngày 15 - 17/11/1931, chúng kết án ông khổ sai chung thân. Ngày 03/3/1933 ông bị đày lên nhà tù Sơn La. Hậu quả của những ngày tháng bị tra tấn, ông ốm nặng. Nhận thấy ông là một nhân vật quan trọng, tháng 12/1933, ông có danh sách bị chuyển đi nhà tù Côn Đảo. Nhưng chưa kịp lên đường ông đã hy sinh tại Nhà tù Sơn La. Để tưởng nhớ người chiến sĩ cách mạng tại phường Cát Bi, quận Ngô Quyền (cũ), Hải Phòng đã có một đường phố mang tên Trần Văn Lan. |
|
7 |
Nguyễn Đình Thử |
Nguyễn Đình Thử, sinh năm 1933, quê ở xã Nam Thắng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình (cũ), nay là thành phố Hải Phòng. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thiếu úy, đảng viên, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Sơn La. Từ năm 1954 đồng chí công tác ở Tây Bắc. Khi địch xâm nhập vùng biên giới Việt - Lào đồng chí đã kiên trì thuyết phục đồng bào định cư làm ruộng cấy lúa, ổn định sản xuất và bắt được tên Thào A-dơ, tên phỉ cáo già cùng 12 tên phỉ khác, chuẩn bị vũ trang gây bạo loạn ở vùng biên giới. Ông được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang và nhiều Huân chương Chiến công các loại. Được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. |
|
8 |
Lưu Hữu Phước |
Lưu Hữu Phước (1921-1989), quê ở huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng (cũ), nay là Thành phố Cần Thơ. Trước 1945, ông hoạt động trong phong trào sinh viên yêu nước. Sau Cách mạng ông đảm nhiệm công tác xuất bản, thông tin, tuyên truyền, báo chí, văn học, nghệ thuật và thanh, thiếu niên. Sau 1945, ông giữ nhiều chức vụ: Trưởng ban nghiên cứu âm nhạc, Vụ trưởng Vụ Nhạc-múa, Ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Phó tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1965, ông trở về Nam kháng chiến chống Mỹ làm Trưởng tiểu ban văn nghệ của Trung ương cục, Bộ trưởng Bộ Thông tin - Văn hoá trong Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Ông còn là đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện Âm nhạc. Giáo sư, Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức. Là nhạc sĩ với các bút danh khác như: Huỳnh Minh Siêng, Long Hưng, Hồng Chí… các ca khúc để đời của ông có Tiếng gọi thanh niên, Giải phóng miền Nam, Lên Đàng, Tình Bác sáng đời ta, Khúc khải hoàn... Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. |
Đăng xuất
Việc làm Hồ Chí Minh