Từ khóa gợi ý:
Không tìm thấy từ khóa phù hợp
Việc làm có thể bạn quan tâm
Không tìm thấy việc làm phù hợp

Nghị quyết 247/2025/QH15 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường do Quốc hội ban hành

Số hiệu 247/2025/QH15
Ngày ban hành 10/12/2025
Ngày có hiệu lực 24/01/2026
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Quốc hội
Người ký Trần Thanh Mẫn
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

QUỐC HỘI
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Nghị quyết số: 247/2025/QH15

Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2025

 

NGHỊ QUYẾT

TIẾP TỤC NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

QUỐC HỘI

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 203/2025/QH15;

Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH13;

Căn cứ Nghị quyết số 130/2024/QH15 ngày 08 tháng 6 năm 2024 của Quốc hội về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2025 và Nghị quyết số 131/2024/QH15 ngày 21 tháng 6 năm 2024 của Quốc hội về việc thành lập Đoàn giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”;

Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 756/BC-ĐGS ngày 26 tháng 10 năm 2025 của Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành” và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Đánh giá việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực

Quốc hội cơ bản tán thành nội dung Báo cáo số 756/BC-ĐGS ngày 26 tháng 10 năm 2025 của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành với những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập và nguyên nhân chủ yếu sau đây:

1. Việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Một số kết quả nổi bật là: (a) Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật Bảo vệ môi trường, trong đó Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành hơn 30 văn bản, qua đó đã cơ bản thể chế và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, quán triệt nguyên tắc: Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm để phát triển bền vững; chuyển mạnh sang cơ chế quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật; (b) ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường được quan tâm (năm 2024, đạt 1,12% tổng chi ngân sách nhà nước), công tác bảo vệ môi trường đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng như tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung, tỷ lệ che phủ rừng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, trong nhóm dẫn đầu ASEAN; (c) các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường; (d) công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tăng dần qua các năm, đến nay đạt 97,28% ở đô thị, 80,5% ở nông thôn, giảm hình thức chôn lấp; việc tái chế, tái sử dụng, tận dụng giá trị tài nguyên từ chất thải được tăng cường thông qua các hình thức như đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng, tận dụng nhiệt dư từ đốt rác, sản xuất xi măng để phát điện; đã giảm mạnh lượng tồn đọng tro, xỉ, thạch cao phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện, phân bón, hóa chất thông qua đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng làm nguyên liệu sản xuất; (đ) tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường đã được ngăn chặn, chất lượng môi trường từng bước cải thiện, đặc biệt là chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt một số lưu vực sông chính, nước biển ven bờ, nước dưới đất; (e) công tác ứng phó với biến đổi khí hậu có chuyển biến tích cực; khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội được nâng cao, khởi tạo sinh kế bền vững; kiểm kê khí nhà kính tại các doanh nghiệp đã được triển khai thực hiện; việc chuyển đổi xanh trong các ngành, lĩnh vực hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được thúc đẩy mạnh mẽ; hành lang pháp lý về phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam đã và đang được hình thành; (g) các mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế số… đang được thúc đẩy; nhiều mô hình công nghệ tiên tiến về tái chế và xử lý chất thải đã được ứng dụng, nhân rộng và phổ biến.

2. Bên cạnh kết quả đạt được, việc quy định chi tiết và tổ chức thực hiện Luật Bảo vệ môi trường còn một số hạn chế, bất cập. Cụ thể như: (a) tình trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra ở một số nơi, có thời điểm ở mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; chất lượng môi trường một số đoạn sông tập trung tại khu vực đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề trên lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải chậm được cải thiện; (b) hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường, nhất là trong thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nước thải còn thiếu và lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu (hiện nay tỷ lệ cụm công nghiệp, làng nghề có hệ thống xử lý nước thải đạt quy chuẩn còn thấp (31,5% và 16,6%); chỉ có khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom, xử lý; tỷ lệ chôn lấp trực tiếp chất thải rắn sinh hoạt tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao (58,85%); còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để, trong đó chủ yếu là các bãi chôn lấp rác thải); (c) việc tuần hoàn, tái sử dụng nước thải, tái chế một số loại chất thải rắn công nghiệp vẫn còn hạn chế; một số loại chất thải nguy hại phát sinh từ hộ gia đình chưa được thu gom, xử lý riêng mà lẫn trong chất thải rắn sinh hoạt; tại một số địa phương, cơ sở y tế gặp khó khăn trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn y tế nguy hại; việc nhập khẩu trái phép công nghệ cũ vẫn chưa được kiểm soát, ngăn chặn triệt để; (d) một số mục tiêu chính sách của Luật Bảo vệ môi trường thể hiện trong các pháp luật khác có liên quan chưa đạt hiệu quả mong muốn như: mục tiêu thúc đẩy thay đổi hành vi, thói quen tiêu dùng thông qua pháp luật về thuế, phí về bảo vệ môi trường; mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để thúc đẩy các dự án về bảo vệ môi trường thông qua pháp luật về ngân sách nhà nước; mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ tư vấn lập hồ sơ về môi trường thông qua việc quy định về điều kiện kinh doanh trong pháp luật về đầu tư; (đ) tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo về môi trường, tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn xảy ra tại một số địa phương, có vụ việc diễn biến phức tạp, gây mất trật tự an toàn xã hội.

3. Những hạn chế, bất cập nêu trên do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan bao gồm: (a) tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 và biến động kinh tế; (b) sự gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ; (c) biến đổi khí hậu và thiên tai diễn biến phức tạp và cực đoan; (d) tác động từ quá trình hội nhập, toàn cầu hóa, các vấn đề môi trường xuyên biên giới; (đ) khả năng làm chủ công nghệ còn thấp; (e) việc trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon còn mới, gây khó khăn trong xây dựng, hoàn thiện các quy định trong nước.

Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, cụ thể: (a) nhận thức và ý thức trách nhiệm về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường để phát triển bền vững của một số cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp và người dân còn chưa đầy đủ, có lúc, có nơi còn tư tưởng ưu tiên tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư mà xem nhẹ bảo vệ môi trường, một số doanh nghiệp coi bảo vệ môi trường là chi phí phát sinh; việc xây dựng, ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường địa phương chưa được quan tâm, chú trọng; (b) một số quy định chưa đồng bộ giữa Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và một số luật khác có liên quan; việc ban hành, triển khai các chính sách mới về phân loại, thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt chưa kịp thời; một số định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá chưa tạo động lực đủ mạnh thúc đẩy xã hội hóa đầu tư cho bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, trong khi việc bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước chưa được quan tâm đúng mức, chưa tương xứng với nguồn thu từ thuế, phí bảo vệ môi trường; nguyên tắc người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý” chưa được áp dụng triệt để; một số tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật về tái sử dụng nước thải, chất thải rắn công nghiệp chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế tuần hoàn, sự phát triển nhanh của khoa học, công nghệ; việc thực hiện cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu trong tái chế, xử lý chất thải còn gặp khó khăn do thiếu hạ tầng thu gom, tái chế đồng bộ; lộ trình thực hiện chuyển đổi phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch còn chậm; (c) chậm hình thành thị trường công nghệ môi trường, ngành công nghiệp môi trường; chậm đổi mới, thay thế công nghệ sản xuất lạc hậu; (d) công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được quan tâm triển khai đúng mức, thiếu đổi mới, đa dạng hóa; (đ) việc phân công, phân cấp và phối hợp giữa các cơ quan có lúc, có nơi chưa chặt chẽ và hiệu quả; năng lực, hạ tầng còn hạn chế, đội ngũ công chức, viên chức làm công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu ở cơ sở chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại; (e) công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa đáp ứng yêu cầu, chế tài xử lý đối với một số hành vi gây ô nhiễm môi trường còn thấp, chưa đủ tính răn đe; (g) sự tham gia của cộng đồng dân cư, người dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các bên liên quan trong hoạt động bảo vệ môi trường còn chưa đủ mạnh mẽ và sâu rộng.

4. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường thời gian qua là do chủ trương, đường lối đúng đắn và sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Đồng chí Tổng Bí thư; việc ban hành kịp thời, tương đối đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả theo thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự chủ động vào cuộc, phối hợp kịp thời của các Bộ, ngành, địa phương và sự tham gia, nỗ lực của toàn dân, doanh nghiệp, các lực lượng, các nhà khoa học trong công tác bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, bất cập trong hướng dẫn và thực hiện Luật Bảo vệ môi trường như đã nêu trên. Một số Bộ, ngành, địa phương còn chậm hoặc chưa ban hành đầy đủ một số quy định; chưa bố trí thỏa đáng nguồn lực cho việc xử lý các vấn đề môi trường thuộc phạm vi quản lý, nhất là trong đầu tư hạ tầng thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt, làng nghề, cụm công nghiệp, chất thải rắn sinh hoạt. Trong một số trường hợp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ và các cấp chính quyền địa phương có trách nhiệm trong chỉ đạo điều hành, tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, chưa xử lý triệt để các vấn đề môi trường và giải quyết các vướng mắc phát sinh. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có phần trách nhiệm trong giám sát, kiến nghị, chưa giám sát thường xuyên và chưa giám sát đến cùng việc thực hiện các kiến nghị trong công tác bảo vệ môi trường.

Điều 2. Nhiệm vụ, giải pháp

Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, thích ứng kịp thời với bối cảnh trong giai đoạn mới, Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, nghiên cứu, thực hiện các kiến nghị của Đoàn giám sát tại Báo cáo số 756/BC-ĐGS ngày 26 tháng 10 năm 2025 và tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:

1. Nhiệm vụ, giải pháp đột phá

a) Đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và tổ chức thực thi quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả

Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm xuyên suốt trong tư duy, tầm nhìn và định hướng phát triển bền vững đất nước; thống nhất trong nhận thức và hành động coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường; loại bỏ quan điểm “Bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”; tiếp tục hoàn thiện nhóm chỉ tiêu về môi trường, trong đó chú trọng cơ chế giao chỉ tiêu thực hiện cụ thể cho các địa phương gắn với cơ chế đánh giá trách nhiệm hoàn thành của người đứng đầu; bổ sung chỉ tiêu về tăng trưởng các-bon thấp vào hệ thống chỉ tiêu phát triển quốc gia và trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, hằng năm phù hợp với yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn.

Thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng và tổng kết, đánh giá, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường phù hợp với yêu cầu thực tế (chi tiết tại Phụ lục kèm theo).

Thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, coi chất thải là tài nguyên và được quản lý trên môi trường số; thực hiện chuyển đổi xanh thông qua các cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ thân thiện với môi trường, công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, mua sắm xanh, năng lượng tái tạo; chủ động xây dựng thể chế để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Kinh tế hóa môi trường, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải; áp dụng triệt để nguyên tắc “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý.

Tiếp tục đẩy mạnh phương thức quản lý nhà nước từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn để quản lý và tăng cường kiểm tra, giám sát; cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính; phân cấp, phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương theo nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.

b) Tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường

Chú trọng đầu tư phát triển các công trình bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Ưu tiên nguồn lực từ ngân sách và nguồn lực xã hội hóa cho bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng môi trường thiết yếu như: hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị; hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải phù hợp cho từng loại rác, các nhà máy tái chế, xử lý rác thải hữu cơ, chất thải nguy hại; cải thiện và phục hồi môi trường các lưu vực sông; thích ứng với biến đổi khí hậu; hỗ trợ hoạt động chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính, vận hành thị trường các-bon; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ mới không phát thải, công nghệ lưu trữ năng lượng, thu giữ và sử dụng các-bon thông qua các cơ chế tài chính linh hoạt (như đầu tư công hoặc hợp tác công tư...); có cơ chế, chính sách đặc thù trong việc đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Bố trí đúng, đủ, quản lý có hiệu quả và tăng dần chi ngân sách cho bảo vệ môi trường tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm từ năm 2027 tỷ trọng ngân sách chi cho bảo vệ môi trường trong tổng chi ngân sách nhà nước tăng hơn so với năm 2025; phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương quyết định phân bổ nguồn lực cho bảo vệ môi trường.

[...]
0

CHỦ QUẢN: Công ty TNHH THƯ VIỆN PHÁP LUẬT

Mã số thuế: 0315459414, cấp ngày: 04/01/2019, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư TP HCM.

Đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Tường Vũ

GP thiết lập trang TTĐTTH số 30/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP.HCM cấp ngày 15/06/2022.

Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm số: 4639/2025/10/SLĐTBXH-VLATLĐ cấp ngày 25/02/2025.

Địa chỉ trụ sở: P.702A, Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, phường Phú Nhuận, TP. HCM

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
...loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu...
Thư Viện Nhà Đất
Thư Viện Nhà Đất
...hiểu pháp lý, rõ quy hoạch, giao dịch nhanh...