Nhấn vào mũi tên để hiển thị chuyên mục con hoặc nhấn vào tiêu đề để lọc theo chuyên mục cha
05 Bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12?
05 Bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12? Điều kiện tham gia tuyển sinh đại học 2025? Xây dựng kế hoạch xét tuyển 2025?
05 Bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12?
Dưới đây là 05 bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12:
Bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 số 1 So sánh bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu và "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm. Thơ ca Việt Nam luôn mang trong mình sứ mệnh cao cả – phản ánh những tâm tư, tình cảm của con người trước thời cuộc, trước quê hương, đất nước. Trong chương trình Ngữ văn lớp 12, hai bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Cả hai tác phẩm đều thể hiện tình yêu quê hương, tinh thần dân tộc mạnh mẽ, nhưng mỗi bài thơ lại có cách thể hiện riêng, phản ánh hai giai đoạn lịch sử khác nhau. Sự khác biệt ấy tạo nên hai sắc thái nghệ thuật độc đáo, nhưng cùng chung một sợi dây kết nối – niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Trước hết, điểm chung dễ nhận thấy nhất trong hai bài thơ là tình yêu quê hương, đất nước tha thiết. Nếu Việt Bắc là khúc ca ân tình giữa người cán bộ cách mạng với nhân dân Tây Bắc, thể hiện sự thủy chung, gắn bó với nơi đã che chở họ trong những năm tháng kháng chiến, thì Đất Nước lại mở ra một cái nhìn rộng lớn hơn về đất nước như một thực thể lịch sử, văn hóa được hun đúc từ bao thế hệ nhân dân. Cả hai bài thơ đều đề cao vai trò của nhân dân trong quá trình giữ gìn và xây dựng đất nước. Đất nước không chỉ được hiểu theo nghĩa địa lý đơn thuần, mà còn là hình ảnh của những con người bình dị, những phong tục, tập quán, những câu chuyện lịch sử gắn bó với đời sống dân gian. Bên cạnh đó, cả hai tác phẩm đều mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng dân tộc mạnh mẽ. Việt Bắc tái hiện những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, với hình ảnh những con người cần cù, chịu thương chịu khó, sống giản dị nhưng luôn vững vàng trong gian khổ. Họ không chỉ là những người nông dân chân chất mà còn là những người chiến sĩ kiên trung. Còn trong Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định rằng đất nước là của nhân dân, của những con người vô danh nhưng đã góp phần làm nên lịch sử. Đất nước được hình thành từ chính cuộc sống lao động, từ tình yêu thương và cả những hy sinh thầm lặng của biết bao thế hệ. Tuy có những điểm tương đồng, nhưng Việt Bắc và Đất Nước lại mang những sắc thái riêng biệt, phản ánh phong cách sáng tác và hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Việt Bắc được sáng tác năm 1954, khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Lúc này, cán bộ cách mạng chia tay đồng bào để trở về xuôi, khép lại một thời kỳ gian khổ nhưng đầy ắp nghĩa tình. Bài thơ như một lời tri ân sâu sắc đối với nhân dân Việt Bắc, những người đã nhường cơm sẻ áo, đồng cam cộng khổ với cách mạng trong suốt chín năm trường kỳ kháng chiến. Ngược lại, Đất Nước ra đời năm 1971, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Nguyễn Khoa Điềm viết bài thơ này để đánh thức ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước, nhắc nhở họ rằng đất nước không phải là một khái niệm xa vời, mà chính là những gì gần gũi nhất, thân thuộc nhất trong cuộc sống hằng ngày. Về phương diện nghệ thuật, mỗi bài thơ lại mang một phong cách khác nhau. Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát, giàu tính dân gian, tạo nên nhịp điệu mượt mà, êm ái như một khúc hát giao duyên giữa người đi kẻ ở. Giọng thơ trữ tình, tha thiết, đậm chất ca dao, khiến người đọc cảm nhận rõ nét nỗi nhớ thương da diết, sự gắn bó sâu nặng của người cán bộ với Việt Bắc. Trong khi đó, Đất Nước được viết theo thể thơ tự do, câu thơ dài ngắn đan xen, lúc trầm lắng suy tư, lúc mạnh mẽ dứt khoát. Chất chính luận hòa quyện cùng chất trữ tình, tạo nên một bài thơ vừa sâu sắc, vừa gợi nhiều liên tưởng phong phú. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng cao, như "tóc mẹ thì bới sau đầu", "miếng trầu bây giờ bà ăn", "hạt gạo phải một nắng hai sương", để làm nổi bật vẻ đẹp bình dị nhưng thiêng liêng của đất nước. Dù được sáng tác ở hai thời điểm khác nhau, mang phong cách nghệ thuật khác nhau, nhưng cả Việt Bắc và Đất Nước đều thể hiện một tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, một niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống dân tộc. Nếu Việt Bắc là lời tri ân đầy xúc động đối với những con người đã hi sinh thầm lặng cho cách mạng, thì Đất Nước là lời khẳng định mạnh mẽ rằng nhân dân chính là chủ nhân của đất nước, chính họ đã gìn giữ và xây dựng đất nước suốt bao thế hệ. Hai bài thơ – hai cách nhìn – nhưng cùng chung một mục đích: khơi gợi lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với quê hương, đất nước. Có thể nói, Việt Bắc và Đất Nước là hai tác phẩm tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại. Một bài thơ là khúc tình ca cách mạng, một bài thơ là bản trường ca về đất nước của nhân dân. Dù khác nhau về cách thể hiện, nhưng cả hai đều để lại trong lòng người đọc những xúc cảm sâu sắc về quê hương, dân tộc. Những vần thơ ấy vẫn luôn vang vọng, nhắc nhở chúng ta về lòng yêu nước, về sự gắn kết keo sơn giữa nhân dân và lịch sử, về trách nhiệm của mỗi con người trong hành trình xây dựng và bảo vệ đất nước hôm nay. |
Bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 số 2 So sánh bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm. Trong dòng chảy thơ ca Việt Nam hiện đại, hai tác phẩm Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đều mang trong mình những giá trị sâu sắc về lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và hình ảnh con người Việt Nam qua những thời kỳ đầy biến động. Tuy nhiên, mỗi bài thơ lại có một cách thể hiện riêng, phản ánh những góc nhìn khác nhau về đất nước và con người, tạo nên những dấu ấn nghệ thuật đặc sắc. Nếu Tây Tiến của Quang Dũng là bức tranh lãng mạn, hào hùng về người lính trong kháng chiến chống Pháp, thì Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm lại là một bản trường ca sâu lắng về lịch sử, văn hóa và sự trường tồn của đất nước. Cả hai tác phẩm đều hướng đến tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc, nhưng một bài thơ khắc họa vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, còn một bài lại khai mở một cái nhìn toàn diện về đất nước từ những điều bình dị nhất. Trước hết, điểm chung giữa hai bài thơ chính là tình yêu đất nước và tinh thần dân tộc được thể hiện sâu sắc. Trong Tây Tiến, đất nước hiện lên qua những chặng đường hành quân gian nan nhưng đầy chất thơ của đoàn quân Tây Tiến. Đó là hình ảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, là những bản làng mờ sương, là những đêm liên hoan rộn ràng ánh đuốc. Người lính Tây Tiến hiện lên vừa hào hùng, kiêu hãnh vừa lãng mạn, với “mắt trừng gửi mộng qua biên giới”, mang trong mình khát vọng cống hiến và ý chí kiên cường. Trong khi đó, Đất Nước lại nhìn đất nước qua dòng chảy của lịch sử, văn hóa và con người. Nguyễn Khoa Điềm không vẽ nên một đất nước của những chiến công hiển hách, mà khẳng định đất nước là của nhân dân – những con người vô danh nhưng đã góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương suốt bao đời. Nếu Tây Tiến là bài thơ của những người lính trẻ sẵn sàng hiến dâng tuổi xuân cho đất nước, thì Đất Nước là bài thơ nhắc nhở mỗi con người về trách nhiệm gìn giữ và phát triển quê hương. Dù cùng nói về đất nước, nhưng phong cách nghệ thuật của hai bài thơ lại rất khác nhau. Tây Tiến mang đậm chất lãng mạn và bi tráng, với những hình ảnh đầy chất thơ và cảm xúc. Quang Dũng không miêu tả chiến tranh khốc liệt theo cách trực diện, mà để người đọc cảm nhận cái dữ dội qua những câu thơ hàm súc: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm / Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Ngay cả cái chết của người lính cũng được khắc họa đầy thi vị: “Áo bào thay chiếu anh về đất / Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Cái bi tráng và hào hùng hòa quyện, làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến. Ngược lại, Đất Nước lại sử dụng giọng điệu trữ tình – chính luận, kết hợp suy ngẫm với những hình ảnh bình dị, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm không tạo nên những hình ảnh hoành tráng, mà chạm vào trái tim người đọc bằng những điều nhỏ bé, đời thường: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Một điểm khác biệt nữa là góc nhìn về con người trong hai bài thơ. Tây Tiến tập trung vào hình tượng người lính – những chàng trai Hà thành hào hoa, lãng tử, vượt qua gian khó bằng tâm hồn lạc quan, yêu đời. Họ sống và chiến đấu như những tráng sĩ thời xưa, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, để lại hình ảnh đẹp trong lòng người đọc. Còn Đất Nước lại khắc họa hình ảnh nhân dân bình dị – những con người lao động, những người mẹ tần tảo, những con người vô danh nhưng đã âm thầm làm nên đất nước. Nếu người lính trong Tây Tiến là những biểu tượng anh hùng của một thời đại, thì nhân dân trong Đất Nước lại là những con người trường tồn qua bao thế hệ, góp phần tạo nên bản sắc dân tộc. Có thể nói, Tây Tiến và Đất Nước là hai bài thơ có cùng chung một chủ đề nhưng lại mang những sắc thái khác nhau. Một bài thơ là bức tranh bi tráng về người lính Tây Tiến, một bài thơ là bản trường ca về đất nước của nhân dân. Dù được thể hiện bằng những phong cách khác nhau, nhưng cả hai bài thơ đều khơi dậy trong lòng người đọc niềm tự hào về quê hương, đất nước, về những con người đã cống hiến, hi sinh để làm nên lịch sử. Đó chính là giá trị bền vững của hai tác phẩm này, khiến chúng trở thành những dấu ấn không thể phai mờ trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. |
Bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 số 4 So sánh bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu và "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm Thơ ca Việt Nam hiện đại không chỉ phản ánh tâm tư của con người trước cuộc đời mà còn thể hiện những triết lý sâu sắc về thời gian, tình yêu, và dân tộc. Nếu Vội vàng của Xuân Diệu là tiếng hát sôi nổi của một cái tôi yêu đời, khao khát tận hưởng từng khoảnh khắc của tuổi trẻ, thì Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm lại là bản trường ca trầm lắng về lịch sử, văn hóa và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với quê hương. Một bài thơ ngợi ca cá nhân giữa cuộc đời, một bài thơ ngợi ca dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đặt hai tác phẩm này cạnh nhau, ta sẽ thấy hai góc nhìn rất khác về con người và cuộc sống, nhưng đều chạm đến những giá trị cốt lõi của thời gian và sự tồn tại. Vội vàng là bài thơ của một tâm hồn yêu đời cuồng nhiệt. Xuân Diệu khao khát níu giữ từng giây phút của thanh xuân, bởi ông nhận ra rằng thời gian trôi đi không bao giờ trở lại: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua”. Cái tôi trong thơ Xuân Diệu là cái tôi cá nhân đầy mãnh liệt, luôn muốn tận hưởng, muốn "ôm" lấy cả vũ trụ, để không lãng phí một giây nào của cuộc đời. Ngược lại, Đất Nước lại không nói về một cái tôi riêng lẻ, mà là cái tôi hòa vào dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm không nhìn đất nước từ những chiến công lịch sử, mà từ những điều bình dị nhất: “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Nếu Xuân Diệu sợ thời gian lấy đi tuổi trẻ của mình, thì Nguyễn Khoa Điềm nhìn thời gian như dòng chảy của bao thế hệ, nơi mỗi con người đều để lại một dấu ấn cho đất nước. Cả hai bài thơ đều nói về thời gian, nhưng cách cảm nhận lại trái ngược. Xuân Diệu nhìn thời gian như một dòng chảy tàn nhẫn, cuốn trôi tuổi trẻ, khiến con người phải "vội vàng" tận hưởng cuộc sống trước khi quá muộn. Bởi thế, ông hối hả muốn “tắt nắng đi”, “buộc gió lại” để giữ mãi mùa xuân. Trong khi đó, Nguyễn Khoa Điềm lại thấy thời gian như một sự kế thừa, nơi mỗi thế hệ tiếp nối nhau để tạo nên một đất nước trường tồn: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”. Ở Xuân Diệu, thời gian là kẻ thù, còn ở Nguyễn Khoa Điềm, thời gian là dấu vết của những con người đã làm nên lịch sử. Phong cách nghệ thuật của hai bài thơ cũng có sự đối lập thú vị. Vội vàng mang đậm chất lãng mạn, với những hình ảnh tràn đầy sức sống: “Tôi muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. Những câu thơ Xuân Diệu tuôn trào, dồn dập, như chính nhịp đập gấp gáp của một trái tim yêu cuộc đời. Ngược lại, Đất Nước lại mang màu sắc trữ tình – chính luận, kết hợp giữa cảm xúc và suy ngẫm. Nguyễn Khoa Điềm không sử dụng những hình ảnh lộng lẫy, mà chạm đến trái tim người đọc bằng những câu chuyện gần gũi: “Đất Nước là hạt gạo ta ăn / Đất Nước là nơi ta hò hẹn”. Nếu Vội vàng là tiếng reo vui của một kẻ say mê cuộc sống, thì Đất Nước là lời nhắn nhủ thầm lặng về trách nhiệm của mỗi con người đối với quê hương. Dù khác nhau về phong cách và góc nhìn, nhưng cả hai bài thơ đều mang đến những giá trị sâu sắc về con người. Vội vàng thức tỉnh chúng ta biết trân trọng từng giây phút của cuộc đời, còn Đất Nước nhắc nhở ta rằng mỗi hành động nhỏ bé hôm nay đều góp phần làm nên tương lai của quê hương. Một bài thơ hướng về cá nhân với khát vọng tận hưởng, một bài thơ hướng về dân tộc với trách nhiệm gìn giữ và phát triển. Và có lẽ, để sống trọn vẹn, con người không chỉ cần yêu đời như Xuân Diệu, mà còn cần ý thức về cội nguồn như Nguyễn Khoa Điềm.
|
Bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 số 5 So sánh bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận và "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử Thơ ca luôn là nơi gửi gắm tâm tư của con người trước cuộc đời, thiên nhiên và chính mình. Nếu Tràng giang của Huy Cận là bức tranh sông nước mênh mông, gợi lên nỗi buồn sâu lắng, thì Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lại là một bức tranh thiên nhiên tràn đầy ánh sáng, nhưng cũng chất chứa những khát khao xa vời. Một bài thơ mở ra không gian rộng lớn, hoang vắng, một bài thơ lại đắm chìm trong thế giới thơ mộng, huyền ảo. Đặt hai tác phẩm này bên cạnh nhau, ta sẽ thấy hai cách cảm nhận về thiên nhiên và con người vừa khác biệt, vừa đồng điệu. Trước hết, cả hai bài thơ đều thể hiện nỗi buồn, nhưng ở những sắc thái khác nhau. Tràng giang là nỗi buồn mang tầm vóc vũ trụ, là sự cô đơn giữa thiên nhiên rộng lớn. Con sông trong thơ Huy Cận không chỉ là hình ảnh thiên nhiên, mà còn là biểu tượng của kiếp người trôi nổi, lạc lõng: “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu / Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Cái tôi trữ tình trong Tràng giang nhỏ bé giữa không gian mênh mông, và sự cô đơn ấy không chỉ đến từ ngoại cảnh, mà còn từ tâm hồn của một người đang mang nỗi niềm thời đại. Ngược lại, nỗi buồn trong Đây thôn Vĩ Dạ lại mang sắc thái mong manh, vừa thực vừa mơ. Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? / Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhưng càng đi sâu, ta càng thấy một nỗi buồn mơ hồ, ẩn hiện sau những hình ảnh lãng mạn ấy. Thiên nhiên trong hai bài thơ cũng mang những đặc điểm khác nhau. Tràng giang là thiên nhiên của sự vô tận, hoang vắng, nơi con người nhỏ bé đến mức gần như tan biến. Những hình ảnh như “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” hay “bờ xanh tiếp bãi vàng” gợi lên cảm giác vô định, mênh mông. Dường như không có một điểm tựa nào, chỉ có dòng sông lặng lẽ trôi, mang theo nỗi niềm sâu kín của con người. Trái lại, Đây thôn Vĩ Dạ lại là thiên nhiên của cảm xúc, nơi cảnh vật gắn liền với tâm trạng. Nếu thôn Vĩ ở khổ đầu hiện lên tươi tắn với “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, thì đến khổ cuối, thiên nhiên trở nên huyền ảo, mơ hồ với hình ảnh “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Thiên nhiên ở đây không chỉ là ngoại cảnh, mà còn là tâm trạng của nhân vật trữ tình – một nỗi buồn day dứt, chờ đợi trong vô vọng. Cách sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh trong hai bài thơ cũng tạo nên những sắc thái khác biệt. Huy Cận sử dụng những từ ngữ giàu tính tạo hình, với những đường nét gãy gọn, dứt khoát: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Thiên nhiên hiện lên bằng những đường nét rõ ràng, không có chỗ cho sự huyền ảo hay mơ mộng. Trong khi đó, Hàn Mặc Tử lại thiên về những hình ảnh đầy cảm xúc, có sự pha trộn giữa thực và ảo: “Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó”. Chính sự huyền ảo này khiến bài thơ mang màu sắc rất riêng, nửa như một bức tranh phong cảnh, nửa như một giấc mơ đầy tiếc nuối. Tuy có những điểm khác biệt rõ rệt, nhưng Tràng giang và Đây thôn Vĩ Dạ vẫn có chung một nỗi niềm – đó là sự cô đơn của con người trước cuộc đời. Nếu trong Tràng giang, con người lạc lõng giữa không gian bao la của vũ trụ, thì trong Đây thôn Vĩ Dạ, con người lại lạc lõng trong chính những khát khao không thành. Một nỗi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, một nỗi cô đơn trong tình yêu xa vời – hai bài thơ, hai nỗi buồn, nhưng đều khiến người đọc trăn trở và suy tư. Tóm lại, Tràng giang và Đây thôn Vĩ Dạ là hai bức tranh thơ mang hai phong cách riêng biệt nhưng cùng thể hiện những nỗi niềm sâu sắc của con người trước thiên nhiên và cuộc đời. Một bài thơ là sự u uất của cái tôi lữ khách cô đơn, một bài thơ là sự khắc khoải của một trái tim luôn hướng về nơi xa xôi. Dù khác nhau về cách thể hiện, cả hai bài thơ đều chạm đến những góc sâu nhất trong tâm hồn con người, khiến ta nhận ra rằng, dù đứng trước thiên nhiên vĩ đại hay trước những giấc mơ mong manh, con người vẫn không ngừng kiếm tìm sự đồng điệu và thấu hiểu. |
05 Bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12? chỉ mang tính tham khảo.
05 Bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12? (Hình từ Internet)
Điều kiện tham gia tuyển sinh đại học 2025?
Căn cứ Điều 5 Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT quy định điều kiện tham gia dự tuyển như sau:
- Đối tượng dự tuyển quy định tại khoản 1 Điều 5 Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Đạt ngưỡng đầu vào theo quy định tại Điều 9 Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT;
+ Có đủ sức khỏe để học tập theo quy định hiện hành;
+ Có đủ thông tin cá nhân, hồ sơ dự tuyển theo quy định.
- Đối với một chương trình đào tạo hoặc một ngành đào tạo áp dụng đồng thời nhiều phương thức tuyển sinh, cơ sở đào tạo có thể quy định cụ thể về đối tượng, điều kiện dự tuyển cho mỗi phương thức tuyển sinh nhưng phải tuân thủ nguyên tắc quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4 Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT.
- Đối với thí sinh khuyết tật bị suy giảm khả năng học tập, cơ sở đào tạo thực hiện các biện pháp cần thiết và tạo điều kiện tốt nhất để thí sinh có nguyện vọng được đăng ký dự tuyển và theo học các ngành phù hợp với điều kiện sức khỏe của thí sinh.
Xây dựng kế hoạch xét tuyển 2025 được quy định như thế nào?
Căn cứ Điều 16 Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT (có cụm từ bị bãi bỏ bởi điểm a khoản 2 Điều 2 Thông tư 06/2025/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 05/05/2025) quy định xây dựng kế hoạch xét tuyển như sau:
- Bộ GDĐT ban hành kế hoạch chung cho công tác xét tuyển đợt 1 đào tạo chính quy để các cơ sở đào tạo phối hợp triển khai các quy trình:
+ Đăng ký xét tuyển trên Cổng thông tin tuyển sinh của Bộ GDĐT (gọi tắt là hệ thống trong phạm vi Chương này) và trên Cổng dịch vụ công quốc gia;
+ Tổ chức xét tuyển tại cơ sở đào tạo theo các phương thức sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT hoặc kết quả học tập cấp THPT hoặc kết quả thi, đánh giá thí sinh;
+ Xử lý nguyện vọng trên hệ thống (theo chu trình lặp kết hợp với quy trình xét tuyển tại cơ sở đào tạo);
+ Xác nhận nhập học trên hệ thống và nhập học tại cơ sở đào tạo.
- Căn cứ kế hoạch chung, cơ sở đào tạo xây dựng kế hoạch xét tuyển thẳng đối với một số phương thức tuyển sinh riêng và kế hoạch xét tuyển các đợt bổ sung (nếu có).
- Nội dung nêu trên được NhanSu.vn biên soạn và chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế thông tin chính thức từ nhà tuyển dụng;
- Điều khoản được áp dụng (nếu có) có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Quý khách vui lòng kiểm tra lại trước khi áp dụng;
- Mọi ý kiến thắc mắc về bản quyền, nội dung của bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ email [email protected];