Công văn 273/BTP-BTTP năm 2017 hướng dẫn lập vi bằng do Bộ Tư pháp ban hành
Số hiệu | 273/BTP-BTTP |
Ngày ban hành | 24/01/2017 |
Ngày có hiệu lực | 24/01/2017 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Tư pháp |
Người ký | Đỗ Hoàng Yến |
Lĩnh vực | Dịch vụ pháp lý |
BỘ TƯ PHÁP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 273/BTP-BTTP |
Hà Nội, ngày 24 tháng 01 năm 2017 |
Kính gửi: Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh
Bộ Tư pháp nhân được Công văn số 10426/STP-BTTP ngày 16/12/2016 của Quý Sở về việc xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ lập vi bằng của thừa phát lại. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
1. Theo quy định của pháp luật thì “Thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ các trường hợp quy định tại Điều 6 của Nghị định này; các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng; vi phạm bí mật đời tư theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật dân sự; các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” (Khoản 8 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh); “Kèm theo vi bằng có thể là hình ảnh, băng hình và các tài liệu chứng minh khác” (Khoản 2 Điều 27 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).
Như vậy, về nguyên tắc thì các “tài liệu chứng minh” kèm theo vi bằng cũng phải được thừa phát lại thực hiện trong phạm vi, thẩm quyền theo quy định nêu trên. Theo đó, khi thực hiện việc đăng ký, Sở Tư pháp cần phải kiểm tra cả “tài liệu chứng minh” để bảo đảm vi bằng và các tài liệu kèm theo được thực hiện theo đúng quy định tại Khoản 8 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP. Do đó, đối với các vi bằng mà “tài liệu chứng minh” kèm theo là các văn bản, hợp đồng giao dịch có nội dung thuộc thẩm quyền của cơ quan công chứng, chứng thực thì Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng theo quy định tại Khoản 9 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP.
2. Về vướng mắc hiện nay liên quan đến hoạt động lập và đăng ký vi bằng như kiến nghị của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu để có thể quy định cụ thể, rõ ràng hơn trong Dự thảo Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại dự kiến sẽ được trình Chính phủ ban hành trong năm 2017.
Trên đây là ý kiến của Bộ Tư pháp về việc lập và đăng ký vi bằng, xin gửi Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG |
BỘ TƯ PHÁP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 273/BTP-BTTP |
Hà Nội, ngày 24 tháng 01 năm 2017 |
Kính gửi: Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh
Bộ Tư pháp nhân được Công văn số 10426/STP-BTTP ngày 16/12/2016 của Quý Sở về việc xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ lập vi bằng của thừa phát lại. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
1. Theo quy định của pháp luật thì “Thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ các trường hợp quy định tại Điều 6 của Nghị định này; các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng; vi phạm bí mật đời tư theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật dân sự; các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” (Khoản 8 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh); “Kèm theo vi bằng có thể là hình ảnh, băng hình và các tài liệu chứng minh khác” (Khoản 2 Điều 27 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).
Như vậy, về nguyên tắc thì các “tài liệu chứng minh” kèm theo vi bằng cũng phải được thừa phát lại thực hiện trong phạm vi, thẩm quyền theo quy định nêu trên. Theo đó, khi thực hiện việc đăng ký, Sở Tư pháp cần phải kiểm tra cả “tài liệu chứng minh” để bảo đảm vi bằng và các tài liệu kèm theo được thực hiện theo đúng quy định tại Khoản 8 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP. Do đó, đối với các vi bằng mà “tài liệu chứng minh” kèm theo là các văn bản, hợp đồng giao dịch có nội dung thuộc thẩm quyền của cơ quan công chứng, chứng thực thì Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng theo quy định tại Khoản 9 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP.
2. Về vướng mắc hiện nay liên quan đến hoạt động lập và đăng ký vi bằng như kiến nghị của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu để có thể quy định cụ thể, rõ ràng hơn trong Dự thảo Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại dự kiến sẽ được trình Chính phủ ban hành trong năm 2017.
Trên đây là ý kiến của Bộ Tư pháp về việc lập và đăng ký vi bằng, xin gửi Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG |