Kế hoạch 128/KH-UBND năm 2018 thực hiện Quyết định 461/QĐ-TTg trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu | 128/KH-UBND |
Ngày ban hành | 17/10/2018 |
Ngày có hiệu lực | 17/10/2018 |
Loại văn bản | Kế hoạch |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Quảng Ngãi |
Người ký | Nguyễn Tăng Bính |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp |
ỦY BAN NHÂN
DÂN |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 128/KH-UBND |
Quảng Ngãi, ngày 17 tháng 10 năm 2018 |
SỰ CẦN THIẾT VÀ CÁC CĂN CỨ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
Để phát triển kinh tế hợp tác, trong đó nòng cốt là hợp tác xã (HTX), Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách như: Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Quốc hội ban hành Luật Hợp tác xã năm 2012; Chính phủ có nhiều Nghị định ban hành các cơ chế, chính sách để phát triển HTX nói chung và hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) nói riêng. Bên cạnh đó, ngoài các cơ chế, chính sách của Trung ương, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành một số chính sách nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho HTXNN trên địa bàn tỉnh có điều kiện phát triển.
Sau hơn 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, đã có hơn 90% số HTXNN trên địa bàn tỉnh đã được tổ chức đăng ký hoạt động theo Luật HTX 2012; nhiều địa phương đã chủ động thực hiện hợp nhất các HTX quy mô thôn, liên thôn hoạt động kém hiệu quả thành HTX quy mô toàn xã để có điều kiện hoạt động tốt hơn; đã mạnh dạng giải thể một số HTX yếu kém, chỉ tồn tại trên hình thức, nhiều HTX nông nghiệp được trên địa bàn tỉnh đã được củng cố, kiện toàn lại bộ máy quản lý để phù hợp với tình hình mới; nội dung hoạt động của một số HTX nông nghiệp đã được mở rộng thêm nhiều dịch vụ, đáp ứng một phần lớn nhu cầu của thành viên trong một số khâu dịch vụ đầu vào sản xuất. Nhiều HTXNN đã trở thành đầu mối quan trọng trong việc tổ chức thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; thực hiện chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, việc phát triển HTXNN vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập: Một số HTX yếu kém đã ngừng hoạt động nhưng chưa được giải thể xong, số lượng HTX hoạt động hiệu quả thấp còn chiếm trên 78%; HTX còn lúng túng trong tổ chức hoạt động; hoạt động kinh doanh dịch vụ trong HTX có xu hướng ngày càng bị thu hẹp, nhiều HTX chỉ tổ chức được duy nhất một dịch vụ, rất ít HTX mở thêm được dịch vụ mới; hầu hết các HTX chưa năng động trong phát triển kinh doanh, hạn chế trong việc tiếp cận thị trường; chưa hình thành được các liên kết sản xuất với các doanh nghiệp tiêu thụ, chế biến. HTXNN chưa thực hiện được vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác trong cơ cấu lại nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Hiện nay, ngành nông nghiệp cả nước nói chung và nông nghiệp Quảng Ngãi nói riêng đang quyết liệt thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu ngành gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Để thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển HTXNN là một trong những giải pháp quan trọng để tổ chức lại sản xuất, phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, hỗ trợ có hiệu quả cho kinh tế hộ phát triển, nâng cao thu nhập cho nông dân là nền tảng vững chắc để xây dựng nông thôn mới.
Ngày 23/01/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 32/2016/QH14 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó có nội dung “Phấn đấu đến năm 2020 có 15.000 hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả.” Trên cơ sở đó, ngày 27/4/2018, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020 tại Quyết định số 461/QĐ-TTg. Đây là chủ trương hết sức quan trọng để khắc phục nguyên nhân cốt lõi trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Tại Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho UBND các tỉnh, thành phố “Khẩn trương rà soát các Nghị quyết, Đề án, Kế hoạch đã được ban hành để điều chỉnh, bổ sung nội dung, giải pháp tổ chức thực hiện và bố trí nguồn lực hỗ trợ để phù hợp với Đề án này. Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện Đề án có hiệu quả trên địa bàn...”. Do vậy, việc xây dựng "Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/20218 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” là hết sức cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTXNN trên địa bàn tỉnh, từ đó góp phần thực hiện thành công Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
II. CÁC CĂN CỨ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13 ngày 20/12/2012;
Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều luật HTX.
Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều luật HTX.
Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác giai đoạn 2015 - 2020;
Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 28/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư
Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án phát triển 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020;
Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày 29/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về mức hỗ trợ và cơ chế tài chính hỗ trợ bồi dưỡng nguồn nhân lực của hợp tác xã theo Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020;
Thông tư số 31/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xử lý tài sản hình thành từ nhiều nguồn vốn khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã giải thể, phá sản;
Quyết định số 488/QĐ-UBND ngày 06/6/2018 của UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt danh sách hợp tác xã nông nghiệp thực hiện thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở hợp tác xã.
TÌNH HÌNH CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2012 - 2018
I. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP (HTX NN)
1. Thông tin chung về HTX NN:
Tính đến tháng 8/2018 trên địa bàn tỉnh có 183 HTX NN, chiếm 76% tổng số HTX của toàn tỉnh. Trong đó: có 171 HTX đang hoạt động, 12 HTX ngừng hoạt động.
Kết quả xếp loại theo Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như sau:
- HTX tốt: 6 HTX, tỷ lệ 3,27%;
- HTX khá: 35 HTX, tỷ lệ 19,12%;
ỦY BAN NHÂN
DÂN |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 128/KH-UBND |
Quảng Ngãi, ngày 17 tháng 10 năm 2018 |
SỰ CẦN THIẾT VÀ CÁC CĂN CỨ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
Để phát triển kinh tế hợp tác, trong đó nòng cốt là hợp tác xã (HTX), Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách như: Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Quốc hội ban hành Luật Hợp tác xã năm 2012; Chính phủ có nhiều Nghị định ban hành các cơ chế, chính sách để phát triển HTX nói chung và hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) nói riêng. Bên cạnh đó, ngoài các cơ chế, chính sách của Trung ương, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành một số chính sách nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho HTXNN trên địa bàn tỉnh có điều kiện phát triển.
Sau hơn 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, đã có hơn 90% số HTXNN trên địa bàn tỉnh đã được tổ chức đăng ký hoạt động theo Luật HTX 2012; nhiều địa phương đã chủ động thực hiện hợp nhất các HTX quy mô thôn, liên thôn hoạt động kém hiệu quả thành HTX quy mô toàn xã để có điều kiện hoạt động tốt hơn; đã mạnh dạng giải thể một số HTX yếu kém, chỉ tồn tại trên hình thức, nhiều HTX nông nghiệp được trên địa bàn tỉnh đã được củng cố, kiện toàn lại bộ máy quản lý để phù hợp với tình hình mới; nội dung hoạt động của một số HTX nông nghiệp đã được mở rộng thêm nhiều dịch vụ, đáp ứng một phần lớn nhu cầu của thành viên trong một số khâu dịch vụ đầu vào sản xuất. Nhiều HTXNN đã trở thành đầu mối quan trọng trong việc tổ chức thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; thực hiện chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, việc phát triển HTXNN vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập: Một số HTX yếu kém đã ngừng hoạt động nhưng chưa được giải thể xong, số lượng HTX hoạt động hiệu quả thấp còn chiếm trên 78%; HTX còn lúng túng trong tổ chức hoạt động; hoạt động kinh doanh dịch vụ trong HTX có xu hướng ngày càng bị thu hẹp, nhiều HTX chỉ tổ chức được duy nhất một dịch vụ, rất ít HTX mở thêm được dịch vụ mới; hầu hết các HTX chưa năng động trong phát triển kinh doanh, hạn chế trong việc tiếp cận thị trường; chưa hình thành được các liên kết sản xuất với các doanh nghiệp tiêu thụ, chế biến. HTXNN chưa thực hiện được vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác trong cơ cấu lại nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Hiện nay, ngành nông nghiệp cả nước nói chung và nông nghiệp Quảng Ngãi nói riêng đang quyết liệt thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu ngành gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Để thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển HTXNN là một trong những giải pháp quan trọng để tổ chức lại sản xuất, phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, hỗ trợ có hiệu quả cho kinh tế hộ phát triển, nâng cao thu nhập cho nông dân là nền tảng vững chắc để xây dựng nông thôn mới.
Ngày 23/01/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 32/2016/QH14 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó có nội dung “Phấn đấu đến năm 2020 có 15.000 hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả.” Trên cơ sở đó, ngày 27/4/2018, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020 tại Quyết định số 461/QĐ-TTg. Đây là chủ trương hết sức quan trọng để khắc phục nguyên nhân cốt lõi trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Tại Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho UBND các tỉnh, thành phố “Khẩn trương rà soát các Nghị quyết, Đề án, Kế hoạch đã được ban hành để điều chỉnh, bổ sung nội dung, giải pháp tổ chức thực hiện và bố trí nguồn lực hỗ trợ để phù hợp với Đề án này. Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện Đề án có hiệu quả trên địa bàn...”. Do vậy, việc xây dựng "Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/20218 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” là hết sức cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTXNN trên địa bàn tỉnh, từ đó góp phần thực hiện thành công Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
II. CÁC CĂN CỨ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13 ngày 20/12/2012;
Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều luật HTX.
Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều luật HTX.
Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác giai đoạn 2015 - 2020;
Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 28/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư
Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án phát triển 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020;
Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày 29/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về mức hỗ trợ và cơ chế tài chính hỗ trợ bồi dưỡng nguồn nhân lực của hợp tác xã theo Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020;
Thông tư số 31/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xử lý tài sản hình thành từ nhiều nguồn vốn khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã giải thể, phá sản;
Quyết định số 488/QĐ-UBND ngày 06/6/2018 của UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt danh sách hợp tác xã nông nghiệp thực hiện thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở hợp tác xã.
TÌNH HÌNH CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2012 - 2018
I. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP (HTX NN)
1. Thông tin chung về HTX NN:
Tính đến tháng 8/2018 trên địa bàn tỉnh có 183 HTX NN, chiếm 76% tổng số HTX của toàn tỉnh. Trong đó: có 171 HTX đang hoạt động, 12 HTX ngừng hoạt động.
Kết quả xếp loại theo Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như sau:
- HTX tốt: 6 HTX, tỷ lệ 3,27%;
- HTX khá: 35 HTX, tỷ lệ 19,12%;
- HTX trung bình: 99 HTX, tỷ lệ 54,09%;
- HTX yếu: 28 HTX, tỷ lệ 15,30% (trong đó có 12 HTX ngừng hoạt động, chờ giải thể);
- HTX chưa xếp loại: 15 HTX (thành lập mới chưa đủ thời gian 12 tháng, không tham gia xếp loại theo hướng dẫn tại Thông tư 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - tạm thời xếp vào nhóm HTX trung bình).
Theo xếp loại như trên, trên địa bàn tỉnh có 41 HTX (24%) hoạt động có hiệu quả (gồm HTX được xếp loại tốt, khá) và 130 HTX (76%) hoạt động chưa hiệu quả (gồm HTX được xếp loại trung bình, yếu, không tính 12 HTX ngừng hoạt động, chờ giải thể).
2. Tổ chức hoạt động kinh doanh của HTX nông nghiệp
- Nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX: trong 155 HTX nông nghiệp xếp loại từ trung bình đến tốt: có 70 HTX đảm nhận 5 đến 7 dịch vụ; 52 HTX đảm nhận 3 đến 4 dịch vụ; 33 HTX thực hiện 1 - 2 dịch vụ; nhiều HTX chỉ tổ chức duy nhất một dịch vụ thủy lợi, từ nguồn tiền cấp bù thủy lợi phí.
- Cơ cấu ngành nghề kinh doanh dịch vụ trong HTX:
+ 143 HTX làm dịch vụ thủy nông (chiếm 92%);
+ 30 HTX làm dịch vụ cung ứng giống (chiếm 19,35%);
+ 30 HTX làm dịch vụ cung ứng vật tư, phân bón (chiếm 19,35%);
+ 50 HTX làm dịch vụ giống, cây con (chiếm 32,25%);
+ 35 HTX làm dịch vụ tín dụng nội bộ (chiếm 22,58%);
+ 30 HTX làm dịch vụ làm đất (chiếm 19,36%);
Ngoài ra còn một số dịch vụ HTX đang đảm nhận với chức năng là phục vụ cho thành viên HTX, không thu phí dịch vụ, như: dịch vụ khuyến nông, bảo vệ đồng ruộng,...
3. Về tổ chức bộ máy, cán bộ
Số lượng thành viên của HTX trong toàn tỉnh có khoảng 132.120 thành viên, bình quân gần 780 thành viên/HTX. So với trước khi thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật Hợp tác xã năm 2012, số lượng thành viên của HTX giảm do các HTXNN tổ chức rà soát lại số lượng thành viên, ở một số HTX chỉ giữ lại các thành viên thực sự có tâm huyết, gắn bó với HTX.
Bộ máy quản lý HTX có bình quân từ 6-7 người/HTX. Cán bộ có trình độ trung cấp 203 là người, chiếm 26%; cao đẳng và đại học 101 cán bộ, chiếm 13%; còn lại là sơ cấp và chưa qua đào tạo.
4. Về vốn quỹ của HTX nông nghiệp
- Vốn quỹ bình quân của mỗi HTX có từ 1-1,2 tỷ đồng/HTX; phần lớn các HTXNN thực hiện các dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như: Thủy lợi, làm đất, cung ứng giống, vật tư,...ít quan tâm đến các dịch vụ đầu ra như: Bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm (khoảng 26% HTX tham gia liên kết, tuy nhiên, các hình thức liên kết trong sản xuất có quy mô nhỏ, còn lỏng lẻo, thiếu tính ổn định). Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ chưa cao. Năm 2017, doanh thu trung bình của HTX khoảng 800 - 900 triệu đồng/năm, lợi nhuận trung bình khoảng 56 triệu đồng/năm/HTX; Lãi bình quân hàng năm/HTX từ 30-40 triệu đồng; thu nhập của người lao động làm việc thường xuyên trong HTX từ 10-12 triệu đồng/năm/người;
Vốn điều lệ của HTX nông nghiệp: Chủ yếu hình thành từ tài sản của HTX cũ chuyển sang. Thành viên tham gia vào HTX phần lớn không đóng góp vốn điều lệ mà chỉ quy đổi từ vốn tích lũy của HTX cũ thành vốn góp của thành viên khi đăng ký lại theo Luật HTX 2012. Do vậy, nhiều HTX không có vốn để đầu tư phát triển, lúng túng trong việc xác định nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX;
Tổng tài sản cố định của HTX nông nghiệp: Sau khi được đánh giá lại từ HTX cũ chuyển sang HTX mới, tài sản chủ yếu của HTX là công trình thủy lợi, hệ thống kênh mương nội đồng, trụ sở làm việc và sân kho được xây dựng từ những năm 1980, nay đã hư hỏng, xuống cấp.
II. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THEO LUẬT HTX 2012
1. Tổ chức lại: Đến tháng 8/2018 có 168/183 (chiếm 92%) HTXNN đã chuyển đổi, hoạt động theo Luật HTX năm 2012, còn 15 HTX chưa chuyển đổi, đăng ký hoạt động theo Luật, trong đó:
- Có 03 HTX trên địa bàn xã Nghĩa Hà, thành phố Quảng Ngãi chưa thực hiện chuyển đổi, đang làm thủ tục hợp nhất, gồm: HTX NN Đông Hà, HTX NN Nam Hà, HTX NN Tây Hà.
- 12 HTX ngừng hoạt động chờ giải thể, gồm:
- Thành phố Quảng Ngãi (07 HTX): HTX NN Nghĩa Dõng, HTX NN Hòa Đông (xã Tịnh Hòa), HTX dịch vụ nuôi trồng thủy sản Xuân An (xã Tịnh Hòa), HTX NN Hòa Vinh (xã Tịnh Thiện), HTX NN xã Nghĩa Dũng, HTX đóng sửa tàu thuyền và chế biến hải sản Tịnh Phát (xã Tịnh Kỳ), HTX dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ Tịnh Hòa;
- Huyện Bình Sơn (01 HTX): HTX nuôi trồng thủy sản Bình Phú (do Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh);
- Huyện Mộ Đức (02 HTX): HTX chuyên canh mía và chăn nuôi Tú Sơn (xã Đức Lân), HTX DV và nuôi trồng thủy sản Đức Phong;
- Huyện Đức Phổ (02 HTX): HTX nuôi trồng thủy sản Sông Thoa (xã Phổ Văn); HTX nuôi trồng thủy sản Phổ Minh;
Có 05 HTX NN đã giải thể: Thành phố Quảng Ngãi (02 HTX): HTX NN Tịnh An, HTX đóng sửa tàu thuyền Cổ Lũy; huyện Bình Sơn (02 HTX): HTX NN Bình Yên và HTX Nông nghiệp I Bình Châu; huyện Trà Bồng (01 HTX): HTX NN Trà Bình. Sáp nhập, hợp nhất: Có 44 HTX đã hợp nhất, sáp nhập thành 15 HTX. Chưa có HTX NN chuyển sang loại hình hoạt động khác.
2. Thành lập mới: Từ ngày 1/7/2013 đến tháng 8/2018 trên toàn tỉnh có 27 HTX NN được thành lập mới theo luật HTX 2012, bình quân mỗi năm trên địa bàn tỉnh hình thành mới hơn 5 HTX NN. Hiện nay, 14/14 huyện, thành phố đều có HTX NN hoạt động.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN HTX
1. Chính sách của tỉnh
Ngoài các chính sách hỗ trợ phát triển của Trung ương, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành một số chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho HTX trên địa ban tỉnh phát triển, như: Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 13/01/2014 về việc phê duyệt Đề án củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức Hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2015, định hướng đến năm 2020; Quyết định số 31/2014/QĐ-UBND ngày 24/6/2014 về việc ban hành Quy định chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển Hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2014-2020; Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND ngày 27/7/2015 về việc ban hành Quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2015 - 2020; Quyết định số 45/2015/QĐ-UBND ngày 31/8/2015 về việc ban hành Quy định chính sách hỗ trợ đặc thù khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2015-2020; Quyết định số 1352/QĐ-UBND ngày 10/8/2015 về việc thành lập Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể tỉnh Quảng Ngãi; Quyết định số 158/QĐ-UBND ngày 29/3/2016 về việc phê duyệt Đề án thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển Hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi; Quyết định số 1924/QĐ-UBND ngày 18/10/2016 về việc thành lập Tổ công tác liên ngành để rà soát, chấn chỉnh hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện theo Luật Hợp tác xã năm 2012; Quyết định số 50/2016/QĐ-UBND ngày 25/9/2016 của UBND tỉnh Quảng Ngãi Ban hành Quy định chính sách hỗ trợ khuyến khích thực hiện chủ trương “dồn điền đổi thửa” đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2016-2020.
Từ năm 2014 đến nay, ngân sách tỉnh đã bố trí để hỗ trợ cho HTX trên 15 tỷ đồng, cụ thể:
- Hỗ trợ theo Quyết định số 31/2014/QĐ-UBND ngày 24/6/2014 của UBND tỉnh: Với kinh phí hơn 13 tỷ đồng để hỗ trợ cho các nội dung: Đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại và đổi mới công nghệ, mua sắm đổi mới thiết bị máy móc phục vụ sản xuất, hỗ trợ, khuyến khích thành lập mới, hợp nhất, sáp nhập HTX.
- Hỗ trợ theo Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND ngày 27/7/2015 của UBND tỉnh: Đã hỗ trợ cho 03 HTX dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ, với tổng kinh phí: 2.029.210.850 đồng.
2. Chính sách của trung ương: Tổng ngân sách trung ương bố trí hỗ trợ HTX từ 2017 đến nay: 1,8 tỷ đồng, trong đó:
- Vốn sự nghiệp Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã phân bổ 1,5 tỷ đồng để thực hiện hỗ trợ cho các nội dung: bồi dưỡng nguồn nhân lực HTX NN; thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX (UBND tỉnh đã có Quyết định số 488/QĐ-UBND ngày 06/6/2018 phê duyệt danh sách HTX NN thực hiện thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX).
- Vốn Chương trình mục tiêu Tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư theo Quyết định 923/QĐ-TTg ngày 28/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Đã bố trí 300 triệu đồng để thành lập HTXNN quy mô huyện gắn với chuỗi giá trị.
1. Mặt được
- Sau khi có Luật HTX 2012, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành trung ương đã kịp thời ban hành các quy định, hướng dẫn thực hiện và ban hành nhiều chính sách quan trọng hỗ trợ, tạo điều kiện cho HTX phát triển. Bên cạnh các chính sách của Trung ương, UBND tỉnh cũng đã kịp thời ban hành nhiều chính sách bổ sung của tỉnh nhằm tạo điều kiện cho HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng trên địa bàn tỉnh có điều kiện phát triển.
- Có 92% số HTX NN trên địa bàn tỉnh đã được tổ chức đăng ký hoạt động theo Luật HTX 2012; nhiều địa phương đã chủ động thực hiện hợp nhất các HTX quy mô thôn, liên thôn hoạt động kém hiệu quả thành HTX quy mô toàn xã để có điều kiện hoạt động tốt hơn; đã mạnh dạng giải thể một số HTX yếu kém, chỉ tồn tại trên hình thức. Qua tổ chức lại theo Luật HTX 2012, nhiều HTX nông nghiệp được trên địa bàn tỉnh đã được củng cố, kiện toàn lại bộ máy quản lý để phù hợp với tình hình mới; nội dung hoạt động của một số HTX nông nghiệp đã được mở rộng thêm nhiều dịch vụ, đáp ứng một phần lớn nhu cầu của thành viên trong một số khâu dịch vụ đầu vào của sản xuất như dịch vụ thủy nông, bảo vệ đồng ruộng, bảo vệ thực vật, thú y, khuyến nông, cung ứng giống, vật tư nông nghiệp,... và đặc biệt là dịch vụ tín dụng nội bộ. Các HTX rà soát lại thành viên HTX để xác định thành viên có tâm huyết, có nhu cầu chung trong việc sử dụng dịch vụ của HTX, xác định vốn góp và huy động thêm vốn góp của thành viên.
- Thông qua các hoạt động dịch vụ, nhiều HTX nông nghiệp đã tác động tích cực đến sự phát triển của kinh tế hộ thành viên, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển; vai trò HTX NN đối với kinh tế hộ càng rõ hơn khi sản xuất gặp khó khăn như hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh...; những HTX nông nghiệp có dịch vụ vật tư, tín dụng nội bộ đã góp phần hạn chế tình trạng ép giá cũng như vay nặng lãi ở nông thôn.
- HTX nông nghiệp đầu mối quan trọng trong việc tổ chức thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; thực hiện chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
2. Tồn tại, hạn chế
- Tiến độ thực hiện công tác chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012 còn chậm; nhiều HTX chỉ tổ chức đại hội thành viên, đại hội, đại biểu thành viên thông báo chuyển đổi Luật, chưa hoàn chỉnh các thủ tục để được cấp giấy đăng ký HTX;
- HTX còn lúng túng trong tổ chức hoạt động; hoạt động kinh doanh dịch vụ trong HTX có xu hướng ngày càng bị thu hẹp, còn nhiều HTX chỉ tổ chức được duy nhất một dịch vụ cho thành viên, rất ít HTX,mở thêm được dịch vụ mới; hầu hết các HTX chưa năng động trong phát triển kinh doanh, hạn chế trong việc tiếp cận thị trường; chưa hình thành được các liên kết sản xuất với các doanh nghiệp tiêu thụ, chế biến;
- Tài sản, vốn quỹ của HTX NN ít được đầu tư, bổ sung, vốn lưu động của các HTX nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp, hầu hết các HTX NN thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và chưa tiếp cận được vốn tín dụng thương mại; cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất - kinh doanh và quản lý không còn phù hợp với tình hình mới nhưng thiếu điều kiện đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp;
- Trình độ cán bộ quản lý HTX NN còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu mới, công tác điều hành HTX nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và sự chỉ đạo của chính quyền địa phương; tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo còn nhiều, thường xuyên biến động do bị điều động công tác của chính quyền địa phương.
3. Nguyên nhân
- Do mô hình HTX kiểu cũ tồn tại trong thời gian dài, mô hình HTX kiểu mới lại chậm hình thành và phát triển đã làm cho nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và người dân về bản chất, vai trò, vị trí, ý nghĩa và tính cấp thiết phải phát triển kinh tế hợp tác, nhất là HTX trong lĩnh vực nông nghiệp chưa đầy đủ; thậm, chí còn có tư tưởng định kiến, không tạo điều kiện thuận lợi cho HTX phát triển;
- HTX NN chưa thoát khỏi cơ chế quản lý, điều hành theo mô hình HTX kiểu cũ, việc thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật Hợp tác xã 1996 sau đó đến Luật Hợp tác xã 2003 chỉ hình thức, chưa thay đổi được bản chất của HTX; Luật HTX 2012 đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa được các Bộ ngành trung ương thể chế hóa một cách đầy đủ dẫn đến hiệu lực thi hành Luật chưa cao;
- Trình độ năng lực của cán bộ quản lý HTX hạn chế, cán bộ chủ chốt trong HTX NN hầu hết đã lớn tuổi, chưa theo kịp với sự phát triển của cơ chế thị trường, thiếu tính nhạy bén và năng động trong tổ chức và điều hành HTX; thu nhập của người lao động trong lĩnh vực HTX thấp, môi trường hoạt động của HTX không thu hút được cán bộ giỏi, cán bộ trẻ;
- Vốn kinh doanh của đa số các HTX nhỏ bé; thiếu nguồn lực tài chính hỗ trợ cho sự phát triển HTX nông nghiệp; Nhiều chính sách của Trung ương, tỉnh đã ban, nhưng hầu hết HTX nông nghiệp ít được thụ hưởng, như chính sách về tín dụng, đất đai,...
1. Mục tiêu chung
Phát triển các HTX NN hoạt động có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc và các quy định của pháp luật nhằm nâng cao tỷ lệ hợp tác xã khá, giỏi trên địa bàn tỉnh, gắn với nâng cao thu nhập của HTX và thành viên HTX; góp phần thực hiện thành công Chương trình Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020 có 87 HTX NN hoạt động hiệu quả, nâng tỷ lệ số HTX NN hoạt động có hiệu quả trên địa bàn tỉnh đạt tỷ lệ 50% so với tổng số HTX NN, tăng so sới năm 2018 là trên 20%, trong đó:
a) Đối với 41 HTX NN được đánh giá hiệu quả: Duy trì, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động để tiếp tục được đánh giá và phân loại là HTX hoạt động có hiệu quả (tốt, khá). Trong đó, có ít nhất 5 HTX ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
b) Đối với 130 HTX NN được đánh giá chưa hiệu quả: Tổ chức lại theo hướng nâng cao chất lượng hoạt động của HTX, trong giai đoạn 2019 - 2020 nâng 20/130 (trên 15%) HTX từ hoạt động chưa hiệu quả lên hoạt động có hiệu quả;
c) Hỗ trợ HTX thành lập mới 05 mô hình HTX gắn với chuỗi giá trị và hỗ trợ, tạo điều kiện cho 21 HTX NN thành lập mới giai đoạn 2016 - 2018 hoạt động có hiệu quả.
1. Xử lý dứt điểm việc giải thể, chuyển đổi sang loại hình khác đối với các HTX yếu kém đã ngừng hoạt động; trên địa, bàn tỉnh hiện còn 12 HTX NN đã ngừng hoạt động nhưng chậm được giải thể, làm xấu hình ảnh về HTX NN. Nguyên nhân của tình trạng này là khi tiến hành giải thể nhiều địa phương vướng mắc về cơ chế xử lý tài sản không chia, công nợ phải trả (thuế, tín dụng), các khoản nợ đọng của xã viên; quy định về thành phần hội đồng, giải thể; thất lạc hồ sơ, con dấu; thiếu sự hợp tác của cán bộ quản lý HTX, cụ thể gồm:
a) Thành phố Quảng Ngãi (07 HTX): HTXNN Nghĩa Dõng, HTXNN Hòa Đông (xã Tịnh Hòa), HTX dịch vụ nuôi trồng thủy sản Xuân An (xã Tịnh Hòa), HTXNN Hòa Vinh (xã Tịnh Thiện), HTXNN xã Nghĩa Dũng, HTX đóng sửa tàu thuyền và chế biến hải sản Tịnh Phát (xã Tịnh Kỳ), HTX dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ Tịnh Hòa;
b) Huyện Bình Sơn (01 HTX): HTX nuôi trồng thủy sản Bình Phú (do Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh);
c) Huyện Mộ Đức (02 HTX): HTX chuyên canh mía và chăn nuôi Tú Sơn (xã Đức Lân), HTX DV và nuôi trồng thủy sản Đức Phong;
d) Huyện Đức Phổ (02 HTX): HTX nuôi trồng thủy sản Sông Thoa (xã Phổ Văn); HTX nuôi trồng thủy sản Phổ Minh;
Các địa phương và các đơn vị liên quan căn cứ vào Nghị định 107/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều luật HTX và Thông tư số 31/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xử lý tài sản hình thành từ nhiều nguồn vốn khi HTX, liên hiệp HTX, giải thể, phá sản để lập phương án giải quyết những khó khăn,và giải thể dứt điểm 12 HTX NN yếu, kém, ngừng hoạt động trong năm 2019 nhằm làm lành mạnh hóa hoạt động của HTX NN, từ đồ xóa bỏ mặc cảm, định kiến không tốt đến vai trò, vị trí của HTX NN.
2. Duy trì, nâng cao chất lượng hoạt động của các HTX đang hoạt động hiệu quả
a) Hướng dẫn, tư vấn và hỗ trợ các HTX đang hoạt động hiệu quả rà soát, nâng cao chất lượng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Năm 2019: Tư vấn hỗ trợ cho 20 HTX; năm 2020: Tư vấn hỗ trợ cho 21 HTX.
b) Nội dung tư vấn hỗ trợ gồm:
- Rà soát lại số lượng thành viên của HTX, chỉ giữ lại các thành viên thực sự tâm huyết, gắn bó và có nhu cầu sử dụng chung các dịch vụ của HTX; vận động thành viên bổ sung vốn góp (bằng tiền) theo phương án sản xuất kinh doanh của HTX;
- Tư vấn hỗ trợ xây dựng phương án sản xuất kinh doanh của HTX theo hướng tập trung vào các nội dung:
+ Kinh doanh đa mục tiêu: nông nghiệp và phi nông nghiệp;
+ Đối với sản xuất nông nghiệp: tổ chức sản xuất chuyên ngành, tập trung vào một số sản phẩm chính, có thế mạnh; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật theo hướng an toàn, công nghệ cao, liên kết với doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị; xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm hàng hóa;
+ Tham gia và là hạt nhân trong việc thực hiện Chương trình ”Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) ở địa phương
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản trị, kỹ thuật sản xuất cho cán bộ và thành viên HTX.
- Tạo điều kiện cho các HTXN tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước và vốn tín dụng để đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất, ứng dụng công nghệ cao; liên kết với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm.
3. Nâng cao chất lượng của các HTX yếu, kém để đạt tiêu chí có hiệu quả
a) Đặc trưng của các HTX hoạt động chưa hiệu quả: Là những HTX hoạt động ở những địa phương, những vùng có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, quy mô kinh tế hộ nhỏ, nhất là về đất đai, sản xuất manh mún; cơ sở vật chất của HTX nghèo nàn do nguồn vốn góp hạn chế và không tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách và vốn tín dụng; trình độ, năng lực quản trị của cán bộ HTX yếu; trình độ sản xuất của nông dân còn hạn chế, sản xuất chủ yếu còn tự cấp, hạn chế trong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới; sự quan tâm, chỉ đạo và tạo điều kiện giúp đỡ của chính quyền địa phương chưa đúng mức, nhất là tạo điều kiện về môi trường để tổ chức lại sản xuất.
b) Nhiệm vụ: Tư vấn hỗ trợ để tái cấu trúc 20 HTX hoạt động chưa hiệu quả để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX.Trong đó:
- Năm 2019: Tư vấn hỗ trợ cho 7 HTX (thực hiện tại 7 huyện, thành phố vùng đồng bằng - mỗi huyện, thành phố lựa chọn một HTX NN trung bình để thực hiện);
- Năm 2020: Tư vấn hỗ trợ cho 13 HTX (thực hiện tại 7 huyện, thành phố vùng đồng bằng - mỗi huyện đồng bằng 02 HTX, thành phố Quảng Ngãi 01 HTX lựa chọn trong nhóm HTX NN trung bình để thực hiện).
c) Nội dung tư vấn hỗ trợ:
- Hướng dẫn HTX tổ chức rà soát lại danh sách thành viên theo hướng mỗi HTX NN chỉ có từ 100 - 300 thành viên có tâm huyết, gắn bó và sử dụng dịch vụ của HTX, bổ sung vốn góp vào HTX theo nhu cầu vốn của phương án sản xuất kinh doanh mới; khuyến khích và cho ra khỏi HTX những thành viên không sử dụng dịch vụ của HTX, không góp vốn vào HTX theo quy định hoặc những thành viên chỉ có tên trên hình thức;
- Tư vấn tổ chức lại HTX theo hướng hợp nhất một số HTX có quy mô thôn thành HTXNN quy mô liên thôn hoặc liên xã trên cơ sở đó rà soát lại quy mô thành viên và tư vấn xây dựng phương án sản xuất kinh doanh mới;
- Tư vấn hỗ trợ xây dựng phương án sản xuất kinh doanh của HTX theo hướng tập trung vào các nội dung:
+ Kinh doanh đa mục tiêu: nông nghiệp và phi nông nghiệp;
+ Đối với sản xuất nông nghiệp: tổ chức sản xuất chuyên ngành, tập trung vào một số sản phẩm chính, có thế mạnh; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật theo hướng an toàn, công nghệ cao, liên kết với doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị; xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm hàng hóa;
+ Tham gia và là hạt nhân trong việc thực hiện Chương trình ”Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) ở địa phương
- Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ và thành viên của HTX về: Chủ trương của Đảng và Chính phủ về phát triển HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng; Luật HTX năm 2012; cơ chế, chính sách khuyến khích hỗ trợ HTX phát triển; kiến thức, kỹ năng về quản trị HTX; kỹ thuật sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp.
- Tư vấn cho HTX tiếp cận vốn từ nguồn hỗ trợ của Nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và vốn tín dụng, nhất là tín dụng ưu đãi;
- Tăng cường sự chỉ đạo,giúp đỡ của chính quyền địa phương đối với HTX NN, nhất là về đất đai, con người và nguồn lực.
4. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các HTX mới thành lập
a) Thành lập mới HTX NN: Theo Đề án Phát triển 15.000 HTX, liên hiệp HTXNN hoạt động có hiệu quả, để hoàn thành chỉ tiêu Quốc hội giao, trong giai đoạn 2017 - 2020 cả nước phải thành lập mới 5.200 HTXNN, trung bình mỗi tỉnh, thành phố mỗi năm phải thành lập mới 30 HTX NN. Cũng theo Đề án này, Trung ương giao cho Quảng Ngãi trong giai đoạn 2018 - 2020 phải thành lập mới 80 HTX NN. Trong thực tế 5 năm qua (từ tháng 1/7/2013 đến tháng 8/2018) trên toàn tỉnh có 27 HTX NN được thành lập mới theo luật HTX 2012, bình quân mỗi năm chỉ thành lập mới được 5 HTX NN. Bên cạnh đó, những HTX NN được thành lập mới trong giai đoạn này đa số đều hoạt động chưa hiệu quả.
Với thực tế thành lập mới HTXNN như trên, trong 02 năm (2019 - 2020) để mang tính khả thi và với mục tiêu các HTXNN được thành lập mới hoạt động có hiệu quả, cần tập trung tư vấn, hỗ trợ thành lập mới 05 HTX NN. Trong đó: Năm 2019: thành lập mới 02 HTX, năm 2020: thành lập mới 03 HTX.
Các HTX NN được thành lập mới được thành lập chủ yếu ở các vùng có tính chất sản xuất hàng hóa tập trung, vùng dự kiến hình thành các dự án phát triển nông nghiệp công nghệ cao, như: vùng sản xuất hành tỏi Lý Sơn, Bình Châu (huyện Bình Sơn) gắn với phát triển du lịch; vùng sản xuất rau an toàn thành phố Quảng Ngãi, huyện Tư Nghĩa; vùng phát triển các Dự án rau công nghệ cao phía Đông huyện Mộ Đức; vùng phát triển các sản phẩm đặc thù của địa phương gắn với Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP).
Nội dung tư vấn hỗ trợ bao gồm:
- Tư vấn hỗ trợ cho sáng lập viên xây dựng Điều lệ HTX, phương án sản xuất kinh doanh của HTX;
- Tư vấn hỗ trợ xây dựng các Dự án liên kết sản xuất, Hợp đồng liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị;
- Tư vấn xây dựng các dự án bảo quản, chế biến sản phẩm của HTX;
- Tư vấn xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu hàng hóa;
- Đào tạo, tập huấn cán bộ và thành viên HTX.
b) Hỗ trợ các HTX thành lập mới giai đoạn 2016-2018:
Riêng trong 02 năm 2017 và 2018 trên địa bàn tỉnh đã thành lập, mới được 21 HTX NN. Một số HTX NN thành lập mới trong giai đoạn này đã tổ chức sản xuất kinh doanh với kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, như: HTX Tân Hòa Phú (xã Hành Tín Tây, huyện Nghĩa Hành) đã xây dựng được chuỗi sản xuất heo thịt theo phương thức chăn nuôi bằng thảo dược với việc hình thành được một số cửa hàng bán sản phẩm; một số HTX NN ở huyện Sơn Hà đã liên kết đưa sản phẩm vào hệ thống siêu thị của BigC. Tuy nhiên, phần lớn các HTX còn lại hoạt động chưa hiệu quả. Riêng các HTX NN ở huyện Sơn Hà cũng cần được tư vấn hỗ trợ để hoạt động đúng bản chất của HTX (các HTX hiện nay hoạt động được nhờ vào Dự án Giảm nghèo Tây nguyên tỉnh Quảng Ngãi). Do vậy, HTX nêu trên cần được tư vấn, hỗ trợ để hoạt động có hiệu quả hơn trong giai đoạn tới.
- Năm 2019: Hỗ trợ cho 10 HTX, năm 2020: Hỗ trợ cho 11 HTX, nội dung hỗ trợ được thực hiện như các nội dung đối với các HTX thành lập mới.
III. KINH PHÍ VÀ NGUỒN KINH PHÍ
1. Kinh phí
Nhu cầu kinh phí triển khai thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2019 - 2020:
Tổng kinh phí (sự nghiệp): |
14.981.248.800 |
đồng |
Trong đó: |
|
|
- Năm 2019: |
5.767.438.400 |
đồng |
+ Ngân sách Trung ương: |
5.687.438.400 |
đồng |
+ Ngân sách địa phương: |
80.000.000 |
đồng |
- Năm 2020: |
9.213.810.400 |
đồng |
+ Ngân sách Trung ương: |
9.173.810.400 |
đồng |
+ Ngân sách địa phương: |
40.000.000 |
đồng |
(Chi tiết có Phụ lục 1, 2 và các Phụ lục 2a,2b,2c,2d,2e,2g kèm theo)
2. Nguồn kinh phí
Kinh phí hỗ trợ từ nguồn vốn các Chương trình:
- Kinh phí chi cho việc giải thể từ nguồn ngân sách huyện, thành phố;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ còn lại được bố trí từ nguồn vốn các chương trình: Hỗ trợ phát triển hợp tác xã tại Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 22/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình Mục tiêu Tái cơ cấu kinh tế và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư theo Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 28/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ; Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo Quyết định 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ; Chương trình khuyến nông quốc gia hỗ trợ cho đào tạo và ứng dụng công nghệ cao; ngân sách tỉnh và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Việc thực hiện và thanh quyết toán kinh phí thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Công văn số 7602/BTC-HCSN ngày 26/6/2018 về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTG ngày 27/4/2018.
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về đổi mới, phát triển HTX theo, Luật HTX năm 2012, công tác tuyên truyền phải được coi trọng và đẩy mạnh để làm thay đổi nhận thức, hiểu rõ bản chất, vai trò của HTX kiểu mới nhằm xóa bỏ những hoài nghi, mặc cảm, định kiến, những quan niệm xấu về HTX, làm cho cán bộ, Đảng viên và người dân nhận thức rõ vai trò quan trọng của HTX nói chung và HTX NN nói riêng trong giai đoạn hiện nay, nhất là đối với việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ngành là cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Xác định rõ từng nội dung tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng:
- Đối với đối tượng là cán bộ nằm trong hệ thống, hệ chính trị, nhất là cán bộ trong hệ thống quản lý nhà nước về HTX: tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể, trong đó nòng cốt là HTX nhằm làm cho đối tượng này nắm chắc những nội dung cơ bản của Luật HTX, cơ chế chính sách; phương pháp tổ chức chỉ đạo, phối hợp với các tổ chức đoàn thể để hỗ trợ phát triển HTX thay vì can thiệp sâu vào hoạt động của HTX.
- Đối với cán bộ HTX: tập trung vào các nội dung như định hướng phát triển HTX của Nhà nước; kiến thức, kỹ năng về lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh; kỹ năng, về quản trị doanh nghiệp, quản trị HTX; thông tin về thị trường, kinh nghiệm về xây dựng các dự án, hợp đồng liên kết theo chuỗi giá trị.
- Đối với người sản xuất: truyền truyền làm rõ tính tất yếu phải tham gia HTX, vì nếu sản xuất nhỏ lẻ sẽ khó tồn tại được trong giai đoạn phát triển sản xuất nông nghiệp hiện nay với những đòi hỏi của thị trường hết sức khắt khe, như: vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, nhãn mác hàng hóa, tiêu chuẩn sản phẩm....
2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với HTX, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về HTX ở các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến thức thường xuyên cho đội ngũ này về HTX NN, trong đó:
- Ở tỉnh: Bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTX ở Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Chi cục Phát triển nông thôn).
- Ở huyện: Bố trí cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm ở phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế hạ tầng) để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTXNN.
3. Thực hiện đồng bộ các chính sách
a) Tiếp tục triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển HTX đã được UBND tỉnh phê duyệt tại các Quyết định số: 04/2014/QĐ-UBND, 31/2014/QĐ-UBND; 143/QĐ-UBND, 33/2015/QĐ-UBND. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển HTX của Trung ương, như Quyết định số: 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014, số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016, số 923/QĐ-TTg ngày 28/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ,...tiếp tục triển khai các hoạt động hỗ trợ phát triển HTXNN phù hợp trên, địa bàn tỉnh.
b) Đẩy mạnh việc thực hiện công tác dồn điền đổi thửa, quy hoạch vùng sản xuất tập trung quy mô lớn; chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ; triển khai thực hiện Nghị định 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh,...để từ đó tạo nguồn lực, đòn bẩy phát triển HTXNN.
c) Huy động, lồng ghép các nguồn vốn để hỗ trợ phát triển HTX, cũng như tạo điều kiện cho các HTX được tham gia các chương trình kinh tế - xã hội của địa phương.
1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đầu mối chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan tổ chức thực hiện Kế hoạch phát triển đề án phát triển 15.000 HTX NN theo Quyết định số 461/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh, thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
a) Tổ chức thẩm định và trình UBND tỉnh kế hoạch hỗ trợ kinh phí cho các HTX dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ theo Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND của UBND tỉnh.
b) Tổng hợp kế hoạch kinh phí hỗ trợ cho các HTX NN theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính.
c) Tổ chức thực hiện bồi dưỡng nguồn nhân lực HTXNN, trong đó có thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTXNN đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 488/QĐ-UBND.
d) Tổ chức đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 và 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ, chú trọng đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động thuộc đối tượng là cán bộ và thành viên của HTXNN.
e) Tham mưu UBND tỉnh triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 trên địa bàn tỉnh.
f) Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát; tổng hợp đề xuất UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện; tổng hợp báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện theo định kỳ hàng quý và báo cáo Trung ương khi có nhu cầu, thực hiện sơ kết đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch.
g) Chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh về: tính hiệu quả sử dụng vốn thực hiện dự án; kết quả công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực, tổ chức đào tạo nghề cho nông nghiệp nông thôn.
i) Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, địa phương tham mưu UBND tỉnh rà soát, điều chỉnh, bổ sung nội dung, giải pháp tổ chức thực hiện và bố trí nguồn lực hỗ trợ cho các HTX NN theo Đề án củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 để phù hợp với.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, địa phương tham mưu UBND tỉnh rà soát, điều chỉnh, bổ sung nội dung, giải pháp tổ chức thực hiện và bố trí nguồn lực hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 - 2020 theo Kế hoạch số 5956/KH-UBND của UBND tỉnh để phù hợp với Đề án phát triển 15.000 HTXNN theo Quyết định số 461/QĐ-TTg; cân đối, ưu tiên bố trí kinh phí thực hiện hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các HTXNN theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg; Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND.
Năm 2019, tham mưu UBND xử lý dứt điểm việc giải thể hoặc chuyển đổi sang loại hình khác đối với các HTXNN đã ngừng hoạt động do Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận thành lập.
3. Sở Tài chính triển khai hướng dẫn nội dung Thông tư số 24/2017/TT-BTC ngày 28/3/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán HTX, liên hiệp HTX để các HTX trên địa bàn tỉnh biết và áp dụng theo đúng quy định và thông tư số 31/2018-BTC ngày 30/3/2018. Cân đối, bố trí kinh phí thực hiện hỗ trợ cho các HTXNN theo các Chương trình, Kế hoạch, Đề án của trung ương và địa phương
4. Sở Tài nguyên và Môi trường rà soát việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hợp tác xã trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật đất đai.
5. Sở Công Thương hướng dẫn, hỗ trợ các HTX NN trong việc tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường.
6. Sở Khoa học và Công nghệ tham mưu UBND tỉnh về các dự án khoa học - công nghệ có tác động nhanh đến phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đặc biệt là các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của HTX.
7. Liên minh Hợp tác xã tỉnh:
a) Thực hiện tuyên truyền, vận động, tư vấn, hỗ trợ HTX: Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ cho việc hình thành và phát triển của HTX; thực hiện các Chương trình, dự án, dịch vụ công được giao và nhiệm vụ ủy thác hỗ trợ, phát triển HTX từ cơ quan quản lý nhà nước. Vận động HTX tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, nâng cao chất lượng và tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Ưu tiên nguồn kinh phí cho HTXNN vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, đặc biệt là các HTX tham gia ứng dụng công nghệ cao.
b) Tổng hợp kết quả thực hiện của các HTX, báo cáo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo định kỳ hàng quý.
8. Hội Nông dân tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện Đề án phát triển 15.000 HTX NN và Kế hoạch này đối với người nông dân nói chung và các thành viên của HTX nói riêng. Vận động các chủ trang trại, nông dân sản xuất giỏi là hội viên Hội Nông dân tham gia tích cực vào phong trào phát triển HTX. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình, độ sản xuất cho thành viên HTX, các chủ trang trại, nông dân sản xuất giỏi là hội viên của Hội Nông dân. Ưu tiên nguồn kinh phí cho vay từ Quỹ hỗ trợ nông dân để giúp các thành viên HTX NN là hội viên Hội Nông dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập.
9. Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi chỉ đạo các Ngân hàng thương mại, chính sách xã hội, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh tập trung tháo gỡ khó khăn trong việc tiếp cận vốn cho các HTXNN nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX NN tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng và các nguồn quỹ tín dụng khác.
10. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Việt Nam và các Đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường công tác tuyên truyền về HTX, phát động những phong trào thi đua đối với HTXNN trong tổ chức hội, đoàn thể; phối hợp tổ chức xây dựng các mô hình HTX điển hình; tập hợp các hội viên, đoàn viên có khả năng sáng lập HTX để vận động thành lập các HTX NN.
11. UBND các huyện, thành phố
a) Sắp xếp, bố trí cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm ở Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (phòng Kinh tế hoặc Kinh tế hạ Tầng) để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trên địa bàn huyện, thành phố về HTX NN.
b) Xây dựng phương án giải thể hoặc chuyển đổi sang loại hình khác đối với các HTX đã ngừng hoạt động do phòng Tài chính - Kế hoạch huyện cấp giấy chứng nhận thành lập.
c) Lựa chọn các sản phẩm đặc trưng, có lợi thế cạnh tranh của địa phương để thúc đẩy việc thành lập HTX chuyên ngành nhằm tổ chức lại sản xuất tập trung, quy mô lớn.
d) Tạo điều kiện cho các HTX tham gia hoạt động một số dịch vụ phục vụ sản xuất và xây dựng nông thôn mới.
e) Hàng năm, tổ chức phân loại và đánh giá HTX NN theo quy định tại Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
f) Tổng hợp kết quả thực hiện của các HTX, báo cáo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo định kỳ hàng quý.
12. Yêu cầu Thủ trưởng các sở, ngành, địa phương và đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức Đoàn thể chính trị- xã hội căn cứ nhiệm vụ được phân công trong Kế hoạch này xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Trong quá trình tổ chức thực hiện nếu gặp khó khăn, vướng mắc, kịp thời phản ảnh về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp./.
|
KT. CHỦ TỊCH |