Công văn 6009/BTP-VP năm 2025 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh gửi tới sau Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV do Bộ Tư pháp ban hành
| Số hiệu | 6009/BTP-VP |
| Ngày ban hành | 25/09/2025 |
| Ngày có hiệu lực | 25/09/2025 |
| Loại văn bản | Công văn |
| Cơ quan ban hành | Bộ Tư pháp |
| Người ký | Nguyễn Hải Ninh |
| Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
|
BỘ TƯ PHÁP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 6009/BTP-VP |
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2025 |
Kính gửi: Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh
Bộ Tư pháp nhận được 05 kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh do Ủy ban Dân nguyện và Giám sát, Quốc hội khóa XV chuyển đến theo Công văn số 1099/UBDNGS15 ngày 29/7/2025. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp xin trả lời như sau:
Nội dung kiến nghị số 01: Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp theo hướng quy định Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh có chức năng giám định pháp y chung, phù hợp với năng lực chuyên môn và yêu cầu thực tiễn điều tra. Theo quy định tại khoản 5 Điều 12 Luật Giám định tư pháp năm 2012 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 8 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020), giám định viên pháp y thuộc Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh chỉ thực hiện giám định pháp y tử thi. Việc này gây lãng phí nguồn nhân lực, trong khi việc tuyển dụng đội ngũ này đang rất khó khăn, đội ngũ giám định viên pháp y thuộc Phòng Kỹ thuật hình sự lại có lợi thế chuyên môn trong đánh giá cơ chế hình thành dấu vết, làm cơ sở xác định công cụ, phương tiện gây án giúp cơ quan điều tra truy tìm tang vật, hung khí...
Trả lời:
Bộ Tư pháp ghi nhận ý kiến của địa phương. Nội dung này đã được Chính phủ trình Quốc hội tại Tờ trình số 792/TTr-CP ngày 15/9/2025 về Dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi).
Nội dung kiến nghị số 02: Kiến nghị sửa đổi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017 nhằm khắc phục một số bất cập về việc xác định mức hoàn trả trong trường hợp nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại. Lý do: (i) Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại (như cán bộ tham mưu, lãnh đạo ký duyệt, cán bộ chuyên môn thực hiện…), hiện Luật chưa có quy định để xác định, phân chia mức độ lỗi của từng người. Dẫn đến mức hoàn trả áp dụng theo quy định hiện nay chưa phản ánh đúng mức độ lỗi của từng người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại (tham gia vụ việc với các vai trò khác nhau, nhưng mức hoàn trả bằng nhau), từ đó chưa phản ánh đúng thực tiễn bản chất vụ việc. (ii) Cùng thực hiện một hành vi vi phạm vào cùng thời điểm nhưng số tiền hoàn trả của những người thực hiện hành vi được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 65 Luật TNBTCNN (được hướng dẫn cụ thể tại Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP) chênh lệch nhau quá lớn nên chưa đảm bảo được sự công bằng giữa những người thực hiện hành vi gây thiệt hại. Điều này là do quy định về thời điểm tính lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại để hoàn trả có sự khác nhau (Luật phân định thành các trường hợp như người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc tại cơ quan nhà nước, đã nghỉ hưu, đã chết…), đặc biệt đối với vụ việc xảy ra cách đây hàng chục năm thì chênh lệch mức lương lớn, dẫn đến chênh lệch mức hoàn trả; một số tình huống bồi thường nhà nước đã phát sinh trên thực tế nhưng chưa được quy định.
Trả lời:
Hiện nay, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại được quy định tại Chương VII (từ Điều 64 đến Điều 72) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và Chương IV (từ Điều 26 đến Điều 31) Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Theo đó, việc xác định trách nhiệm hoàn trả sẽ do Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả thực hiện. Việc xác định mức hoàn trả của từng người thi hành công vụ gây thiệt hại phải dựa trên cơ sở nhiều yếu tố, tình tiết và nhân thân của người thi hành công vụ có hành vi gây thiệt hại: (i) mức độ lỗi của người thi hành công vụ (điểm a khoản 1 Điều 65 Luật TNBTCNN); (ii) số tiền Nhà nước đã bồi thường (điểm b khoản 1 Điều 65 Luật TNBTCNN); (iii) mức lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại tại thời điểm có quyết định hoàn trả (khoản 1 Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP); (iv) các điều kiện về việc giảm mức hoàn trả cho người thi hành công vụ gây thiệt hại (khoản 4 Điều 65 Luật TNBTCNN).
Trường hợp mỗi người thi hành công vụ gây thiệt hại với vai trò khác nhau (lãnh đạo, tham mưu, chuyên môn...), theo điểm b khoản 6 Điều 28 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP, Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả có trách nhiệm đánh giá, xác định mức độ lỗi của người thi hành công vụ gây thiệt hại, căn cứ vào quy định của pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và hồ sơ tài liệu thi hành công vụ, văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường để xác định mức độ lỗi (cố ý hoặc vô ý), xác định mức hoàn trả theo mức từ tối thiểu đến tối đa tương ứng với từng mức độ lỗi theo quy định tại Điều 65 Luật TNBTCNN năm 2017 và Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP để tính mức hoàn trả của từng người[1].
Căn cứ để tính mức hoàn trả là lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại để hoàn trả là lương cơ sở nhân với hệ số theo ngạch, bậc theo quy định của pháp luật tại thời điểm có quyết định hoàn trả; trường hợp tại thời điểm có quyết định hoàn trả, người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc tại cơ quan nhà nước thì việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại căn cứ vào lương của người đó tại thời điểm trước khi nghỉ việc.
Như vậy, với quy định hiện hành của pháp luật về bồi thường nhà nước về cơ bản đã xử lý được kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn nữa quy định về trách nhiệm hoàn trả, trong quá trình sửa đổi Luật TNBTCNN (dự kiến vào năm 2026), Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về xem xét trách nhiệm hoàn trả cho phù hợp với thực tiễn.
Nội dung kiến nghị số 03: Kiến nghị sửa đổi Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 theo hướng bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đồng thời giao Chính phủ và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, đặc thù huy động, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học và cá nhân tham gia, hỗ trợ, triển khai các giải pháp chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trả lời: Để thể chế hoá kịp thời, đầy đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), đồng thời, tháo gỡ, khắc phục những vướng mắc, bất cập từ một số quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện, phù hợp, bảo đảm triển khai có hiệu quả công tác PBGDPL trong giai đoạn mới, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, giải pháp đột phá trong các Nghị quyết “bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị, hiện nay, Bộ Tư pháp đang dự kiến đề xuất xây dựng dự án Luật thay thế Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 trong Chương trình lập pháp năm 2026 của Quốc hội.
Qua các tọa đàm về sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và tổng kết 10 năm thực hiện Luật cũng như quản lý nhà nước về lĩnh vực này, Bộ Tư pháp đề xuất bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý về chuyển đổi số trong công tác PBGDPL và chính sách ưu đãi, huy động, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học và cá nhân tham gia, hỗ trợ, triển khai các giải pháp chuyển đổi số trong công tác PBGDPL.
Ngoài ra, để đổi mới công tác PBGDPL, ngày 15/4/2025, Bộ Tư pháp đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2025 - 2030” (ban hành kèm theo Quyết định số 766/QĐ-TTg), trong đó, Đề án đã giao Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan, tổ chức trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì triển khai nhiệm vụ “khuyến khích hợp tác, liên kết với các tổ chức, chuyên gia, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp tạo tác động xã hội trong thực hiện chuyển đổi số phục vụ công tác PBGDPL”.
Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự án Luật thay thế Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, cơ quan, tổ chức Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nghiên cứu, tham mưu, đề xuất quy định chính sách ưu đãi, huy động, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học và cá nhân tham gia, hỗ trợ, triển khai các giải pháp chuyển đổi số trong công tác PBGDPL, bảo đảm tính chủ động, phù hợp với điều kiện thực tiễn, địa bàn, lĩnh vực quản lý và nhiệm vụ cần triển khai.
Nội dung kiến nghị số 04: Luật Người khuyết tật năm 2010 và Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 quy định nhóm người khuyết tật, nạn nhân mua bán người có quyền được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, những nhóm người này phải có khó khăn về tài chính mới được trợ giúp pháp lý. Vì vậy, đề nghị xem xét mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật theo Luật Người khuyết tật, đối với nạn nhân theo Luật Phòng, chống mua bán người; đồng thời, đề xuất xem xét mở rộng diện các nhóm người yếu thế, không có khả năng tài chính thuê luật sư như: người thuộc hộ cận nghèo, người thuộc hộ mới thoát nghèo, người bị nhiễm chất độc da cam, …
Trả lời:
1. Về quyền được trợ giúp pháp lý của nạn nhân bị mua bán:
Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 quy định: Nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân của hành vi mua bán người và người dưới 18 tuổi đi cùng được trợ giúp pháp lý (khoản 1 Điều 61). Như vậy, so với Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành (chỉ có nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người có khó khăn về tài chính mới được trợ giúp pháp lý) thì Luật Phòng, chống mua bán người đã mở rộng thêm các đối tượng và bỏ điều kiện “có khó khăn về tài chính” (khoản 2 Điều 61).
Khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Vì vậy, từ ngày 01/7/2025, quyền trợ giúp pháp lý của nạn nhân bị mua bán áp dụng theo Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024.
2. Về việc mở rộng diện các nhóm người yếu thế, không có khả năng tài chính thuê luật sư như: người khuyết tật, người thuộc hộ cận nghèo, người thuộc hộ mới thoát nghèo, người bị nhiễm chất độc da cam, …
Bộ Tư pháp đã đề xuất xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 trong Chương trình lập pháp năm 2026. Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của địa phương trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý.
Nội dung kiến nghị số 05: Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự theo hướng đặt nhiệm vụ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế. Đồng thời xây dựng trình tự, thủ tục riêng trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với tội phạm tham nhũng, kinh tế. Theo quy định hiện nay, quy định trình tự thủ tục tố tụng hình sự có sự phân biệt dựa trên tiêu chí về mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà chưa dựa trên tiêu chí, đặc điểm của loại tội phạm, nên về cơ bản giống nhau về trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử.
Trả lời:
1. Đối với kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự theo hướng đặt nhiệm vụ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025) thì cùng với việc kết án người phạm tội, Tòa án quyết định tịch thu tài sản liên quan đến tội phạm tại bản án hình sự với tính chất là hình phạt bổ sung[2] hoặc biện pháp tư pháp[3]. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021, năm 2025) quy định việc tịch thu tài sản liên quan đến tội phạm trong vụ án hình sự thông qua việc xử lý vật chứng do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, theo đó, vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành; tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu (Điều 106).
|
BỘ TƯ PHÁP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 6009/BTP-VP |
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2025 |
Kính gửi: Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh
Bộ Tư pháp nhận được 05 kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh do Ủy ban Dân nguyện và Giám sát, Quốc hội khóa XV chuyển đến theo Công văn số 1099/UBDNGS15 ngày 29/7/2025. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp xin trả lời như sau:
Nội dung kiến nghị số 01: Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp theo hướng quy định Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh có chức năng giám định pháp y chung, phù hợp với năng lực chuyên môn và yêu cầu thực tiễn điều tra. Theo quy định tại khoản 5 Điều 12 Luật Giám định tư pháp năm 2012 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 8 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020), giám định viên pháp y thuộc Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh chỉ thực hiện giám định pháp y tử thi. Việc này gây lãng phí nguồn nhân lực, trong khi việc tuyển dụng đội ngũ này đang rất khó khăn, đội ngũ giám định viên pháp y thuộc Phòng Kỹ thuật hình sự lại có lợi thế chuyên môn trong đánh giá cơ chế hình thành dấu vết, làm cơ sở xác định công cụ, phương tiện gây án giúp cơ quan điều tra truy tìm tang vật, hung khí...
Trả lời:
Bộ Tư pháp ghi nhận ý kiến của địa phương. Nội dung này đã được Chính phủ trình Quốc hội tại Tờ trình số 792/TTr-CP ngày 15/9/2025 về Dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi).
Nội dung kiến nghị số 02: Kiến nghị sửa đổi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017 nhằm khắc phục một số bất cập về việc xác định mức hoàn trả trong trường hợp nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại. Lý do: (i) Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại (như cán bộ tham mưu, lãnh đạo ký duyệt, cán bộ chuyên môn thực hiện…), hiện Luật chưa có quy định để xác định, phân chia mức độ lỗi của từng người. Dẫn đến mức hoàn trả áp dụng theo quy định hiện nay chưa phản ánh đúng mức độ lỗi của từng người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại (tham gia vụ việc với các vai trò khác nhau, nhưng mức hoàn trả bằng nhau), từ đó chưa phản ánh đúng thực tiễn bản chất vụ việc. (ii) Cùng thực hiện một hành vi vi phạm vào cùng thời điểm nhưng số tiền hoàn trả của những người thực hiện hành vi được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 65 Luật TNBTCNN (được hướng dẫn cụ thể tại Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP) chênh lệch nhau quá lớn nên chưa đảm bảo được sự công bằng giữa những người thực hiện hành vi gây thiệt hại. Điều này là do quy định về thời điểm tính lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại để hoàn trả có sự khác nhau (Luật phân định thành các trường hợp như người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc tại cơ quan nhà nước, đã nghỉ hưu, đã chết…), đặc biệt đối với vụ việc xảy ra cách đây hàng chục năm thì chênh lệch mức lương lớn, dẫn đến chênh lệch mức hoàn trả; một số tình huống bồi thường nhà nước đã phát sinh trên thực tế nhưng chưa được quy định.
Trả lời:
Hiện nay, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại được quy định tại Chương VII (từ Điều 64 đến Điều 72) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và Chương IV (từ Điều 26 đến Điều 31) Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Theo đó, việc xác định trách nhiệm hoàn trả sẽ do Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả thực hiện. Việc xác định mức hoàn trả của từng người thi hành công vụ gây thiệt hại phải dựa trên cơ sở nhiều yếu tố, tình tiết và nhân thân của người thi hành công vụ có hành vi gây thiệt hại: (i) mức độ lỗi của người thi hành công vụ (điểm a khoản 1 Điều 65 Luật TNBTCNN); (ii) số tiền Nhà nước đã bồi thường (điểm b khoản 1 Điều 65 Luật TNBTCNN); (iii) mức lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại tại thời điểm có quyết định hoàn trả (khoản 1 Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP); (iv) các điều kiện về việc giảm mức hoàn trả cho người thi hành công vụ gây thiệt hại (khoản 4 Điều 65 Luật TNBTCNN).
Trường hợp mỗi người thi hành công vụ gây thiệt hại với vai trò khác nhau (lãnh đạo, tham mưu, chuyên môn...), theo điểm b khoản 6 Điều 28 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP, Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả có trách nhiệm đánh giá, xác định mức độ lỗi của người thi hành công vụ gây thiệt hại, căn cứ vào quy định của pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và hồ sơ tài liệu thi hành công vụ, văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường để xác định mức độ lỗi (cố ý hoặc vô ý), xác định mức hoàn trả theo mức từ tối thiểu đến tối đa tương ứng với từng mức độ lỗi theo quy định tại Điều 65 Luật TNBTCNN năm 2017 và Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP để tính mức hoàn trả của từng người[1].
Căn cứ để tính mức hoàn trả là lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại để hoàn trả là lương cơ sở nhân với hệ số theo ngạch, bậc theo quy định của pháp luật tại thời điểm có quyết định hoàn trả; trường hợp tại thời điểm có quyết định hoàn trả, người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc tại cơ quan nhà nước thì việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại căn cứ vào lương của người đó tại thời điểm trước khi nghỉ việc.
Như vậy, với quy định hiện hành của pháp luật về bồi thường nhà nước về cơ bản đã xử lý được kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn nữa quy định về trách nhiệm hoàn trả, trong quá trình sửa đổi Luật TNBTCNN (dự kiến vào năm 2026), Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về xem xét trách nhiệm hoàn trả cho phù hợp với thực tiễn.
Nội dung kiến nghị số 03: Kiến nghị sửa đổi Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 theo hướng bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đồng thời giao Chính phủ và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, đặc thù huy động, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học và cá nhân tham gia, hỗ trợ, triển khai các giải pháp chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trả lời: Để thể chế hoá kịp thời, đầy đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), đồng thời, tháo gỡ, khắc phục những vướng mắc, bất cập từ một số quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện, phù hợp, bảo đảm triển khai có hiệu quả công tác PBGDPL trong giai đoạn mới, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, giải pháp đột phá trong các Nghị quyết “bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị, hiện nay, Bộ Tư pháp đang dự kiến đề xuất xây dựng dự án Luật thay thế Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 trong Chương trình lập pháp năm 2026 của Quốc hội.
Qua các tọa đàm về sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và tổng kết 10 năm thực hiện Luật cũng như quản lý nhà nước về lĩnh vực này, Bộ Tư pháp đề xuất bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý về chuyển đổi số trong công tác PBGDPL và chính sách ưu đãi, huy động, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học và cá nhân tham gia, hỗ trợ, triển khai các giải pháp chuyển đổi số trong công tác PBGDPL.
Ngoài ra, để đổi mới công tác PBGDPL, ngày 15/4/2025, Bộ Tư pháp đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2025 - 2030” (ban hành kèm theo Quyết định số 766/QĐ-TTg), trong đó, Đề án đã giao Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan, tổ chức trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì triển khai nhiệm vụ “khuyến khích hợp tác, liên kết với các tổ chức, chuyên gia, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp tạo tác động xã hội trong thực hiện chuyển đổi số phục vụ công tác PBGDPL”.
Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự án Luật thay thế Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, cơ quan, tổ chức Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nghiên cứu, tham mưu, đề xuất quy định chính sách ưu đãi, huy động, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học và cá nhân tham gia, hỗ trợ, triển khai các giải pháp chuyển đổi số trong công tác PBGDPL, bảo đảm tính chủ động, phù hợp với điều kiện thực tiễn, địa bàn, lĩnh vực quản lý và nhiệm vụ cần triển khai.
Nội dung kiến nghị số 04: Luật Người khuyết tật năm 2010 và Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 quy định nhóm người khuyết tật, nạn nhân mua bán người có quyền được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, những nhóm người này phải có khó khăn về tài chính mới được trợ giúp pháp lý. Vì vậy, đề nghị xem xét mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật theo Luật Người khuyết tật, đối với nạn nhân theo Luật Phòng, chống mua bán người; đồng thời, đề xuất xem xét mở rộng diện các nhóm người yếu thế, không có khả năng tài chính thuê luật sư như: người thuộc hộ cận nghèo, người thuộc hộ mới thoát nghèo, người bị nhiễm chất độc da cam, …
Trả lời:
1. Về quyền được trợ giúp pháp lý của nạn nhân bị mua bán:
Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 quy định: Nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân của hành vi mua bán người và người dưới 18 tuổi đi cùng được trợ giúp pháp lý (khoản 1 Điều 61). Như vậy, so với Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành (chỉ có nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người có khó khăn về tài chính mới được trợ giúp pháp lý) thì Luật Phòng, chống mua bán người đã mở rộng thêm các đối tượng và bỏ điều kiện “có khó khăn về tài chính” (khoản 2 Điều 61).
Khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Vì vậy, từ ngày 01/7/2025, quyền trợ giúp pháp lý của nạn nhân bị mua bán áp dụng theo Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024.
2. Về việc mở rộng diện các nhóm người yếu thế, không có khả năng tài chính thuê luật sư như: người khuyết tật, người thuộc hộ cận nghèo, người thuộc hộ mới thoát nghèo, người bị nhiễm chất độc da cam, …
Bộ Tư pháp đã đề xuất xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 trong Chương trình lập pháp năm 2026. Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của địa phương trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý.
Nội dung kiến nghị số 05: Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự theo hướng đặt nhiệm vụ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế. Đồng thời xây dựng trình tự, thủ tục riêng trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với tội phạm tham nhũng, kinh tế. Theo quy định hiện nay, quy định trình tự thủ tục tố tụng hình sự có sự phân biệt dựa trên tiêu chí về mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà chưa dựa trên tiêu chí, đặc điểm của loại tội phạm, nên về cơ bản giống nhau về trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử.
Trả lời:
1. Đối với kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự theo hướng đặt nhiệm vụ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025) thì cùng với việc kết án người phạm tội, Tòa án quyết định tịch thu tài sản liên quan đến tội phạm tại bản án hình sự với tính chất là hình phạt bổ sung[2] hoặc biện pháp tư pháp[3]. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021, năm 2025) quy định việc tịch thu tài sản liên quan đến tội phạm trong vụ án hình sự thông qua việc xử lý vật chứng do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, theo đó, vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành; tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu (Điều 106).
Như vậy, pháp luật hiện hành đã quy định về tịch thu tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong tất cả các vụ án, trong đó bao gồm cả vụ án về tham nhũng, kinh tế. Theo đó, việc thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự được thực hiện từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử (trước khi có bản án của Tòa án) trong trường hợp vụ án bị đình chỉ hoặc khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nhằm bảo đảm thu hồi triệt để tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự nói chung, bao gồm các vụ án về tham nhũng, kinh tế.
2. Đối với kiến nghị xây dựng trình tự, thủ tục riêng trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với tội phạm tham nhũng, kinh tế
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021; năm 2025) quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự đối với tất cả các tội phạm, nhằm bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Do đó, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian qua. Việc xây dựng trình tự, thủ tục riêng trong phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với tội phạm tham nhũng, kinh tế chỉ nên đặt ra khi nhóm tội phạm này có những điểm đặc thù riêng và thực sự cần thiết. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng.
Trên cơ sở kiến nghị của cử tri, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tham mưu, đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án kinh tế, tham nhũng.
Trên đây là trả lời của Bộ Tư pháp đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh, trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh./.
|
|
BỘ TRƯỞNG |
[1] Ví dụ: Ông A (trưởng phòng) và Ông B (phó phòng) cùng là người thi hành công vụ gây thiệt hại. Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả sẽ căn cứ vào hồ sơ tài liệu thi hành công vụ, văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường xác định ông A và ông B đều có lỗi vô ý gây thiệt hại, mức hoàn trả là 5 tháng lương. Số tiền ông A phải hoàn trả là: 2.340.000 x 5.08 x 5 = 59.436.000 đồng; ông B phải hoàn trả là: 2.340.000 x 4.44 x 5 = 51.948.000 đồng. Như vậy, với vai trò cùng là lãnh đạo, tuy nhiên do lương của người thi hành công vụ khác nhau nên mức hoàn trả của mỗi người cũng khác nhau.
[2] Tại Điều 45 quy định tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật Hình sự quy định thì có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ với tính chất là hình phạt bổ sung.
[3] Tại Điều 47 quy định công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; các khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành thì bị tịch thu với tính chất là biện pháp tư pháp
Đăng xuất
Việc làm Hồ Chí Minh